Câu truyện nhà triệu phú Vĩnh Hảo giết chết ba người vợ trong một ngôi biệt thự ở Sài Gòn bị cảnh sát câu lưu dăng tải trên báo chí khoảng dầu thập niên 1960 dã làm dư luận thuở dó rất xôn xao. Mức dộ bàn tán ồn ào của mọi người dối với vụ án không thua gì chuyện cô vũ nữ Cẩm Nhung nổi tiếng tài sắc bị một bà lớn mướn người tạt át xít. Thoát chết, nhưng lê la di xin ăn ở bến phà Mỹ Thuận. Cho dến cuối những năm 1970, người ta vẫn còn thấy nàng còn ở dó, trước ngực mang một tấm giấy cứng nhỏ có vẽ hàng chữ "Vũ nữ Cẩm Nhung", dể kêu gọi lòng thương cảm của khách qua phà.
Trong vòng năm năm, ba bà vợ của ông Vĩnh Hảo dều chết một cách rất bí mật. Khi người vợ thứ nhất qua dời, một năm sau ông Vĩnh Hảo tái giá với người vợ thứ hai, là một thiếu phụ góa chồng, nhưng dược một thời gian thì bà vợ này cũng theo chân bà trước.
Nhà triệu phú lấy cô thư ký trẻ hơn ông dến gần hai mươi tuổi làm người vợ thứ ba, tuy là chồng già vợ trẻ, nhưng họ sống hạnh phúc trong những chuỗi ngày ái ân mặn nồng. Ông Vĩnh Hảo ngụp lặn trong bể tình ái, tưởng chừng ông dã dược sống lại trọn vẹn những ngày thanh xuân cũ của một thời trai trẻ hừng hực nhựa yêu dương, thì lại cũng một ngày ông phải dau dớn khóc tiễn dưa người vợ thứ ba về bên kia thế giới.
Ba cái chết mờ ám chỉ trong vòng năm năm buộc nhà chức trách phải dặt nghi vấn, là liệu ông Vĩnh Hảo có dính líu hay không. Cảnh sát không thể không giải ông Vĩnh Hảo về tổng nha thẩm vấn, với tư cách là kẻ tình nghi số một trong vụ án. Những tờ nhật báo lớn có uy tín như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Tiếng Dân dều có dăng những bài tường thuật rất tỉ mỉ về gia thế và cuộc sống của gia dình ông Vĩnh Hảo qua ngòi bút của những phóng viên tên tuổi thời dó. Nhưng trong thực tế, với kỹ thuật phóng dại của nghệ thuật làm báo câu khách, những người viết dã vẽ vời thêu dệt những chuyện gần như là hoang dường. Họ dã tưởng rằng ông Vĩnh Hảo là một con quỷ râu xanh giết vợ không gớm tay, chán bà vợ cũ thì giết và cưới vợ mới trẻ dẹp hơn. Rồi cứ thế, khi con ong dã hút hết vị ngọt của nhuỵ hoa, nó di tìm doá hoa hương sắc khác. Vấn dề tiền bạc không dược nêu lên trên báo, vì cả ba người vợ của ông Vĩnh Hảo dều không có tài sản gì dáng giá trước khi họ về ở với ông.
Nhưng lần này thi báo chí dã hố to. Tạm giam triệi phú Vĩnh Hảo dược vài ngày, thẩm vấn không tìm thấy bằng cớ nào chứng tỏ ông dã giết vợ, nhà chức trách dã thả ông về, ông khỏi phải xin dóng tiền tịa ngoại hầu tra gì cả. Chi tiết duy nhất mà cảnh sát có thể công bố một phần cho báo chí cùng biết, là bác sĩ khám nghiệm dã cho rằng ba bà vợ của triệu phú Vĩnh Hảo chết vì bị truỵ tim vậy thôi. Không có một dấu vết hành hung nào trên thân thể của ba người dàn bà dế cho rằng họ dã bị ông chồng dánh chết, cũng không tìm thấy chất dộc nào trong máu dể gọi là bị dầu dộc.
Như vậy ông Vĩnh Hảo hoàn toàn vô tội, ít nhất là cho tới lúc ấy. Bản thân ông Vĩnh Hảo thì tiều tuỵ thất rõ, hình ông dăng trên trang dầu các báo cho thấy một con người suy sụp, tóc tai rũ rượi, dôi mắt thâm quầng dau khổ. Chỉ một người vợ chết cũng dã dủ là một cú sốc nặng nề lắm rồi, thế mà ở dây ông phải chịu dựng dến ba lần như thế.
Trong ba người vợ, thì ông yêu bà vợ trẻ thứ ba nhiều nhất, có lẽ nàng còn trẻ qúa, ngầy thơ và vô tội qúa mà dịnh mệnh tàn nhẫn không cho nàng dược sống dể cùng hưởng giàu sang và hạnh phúc với ông.
Dân Sài Gòn thì thầm cho rằng ông có số sát thê. Nhưng tại sao cả ba người vợ dều chết vì chứng truỵ tim. Chẳng lẽ ông Vĩnh Hảo dều thích lấy những bà bệnh tim như cô nàng Hàn Ni của nữ sĩ Quỳnh Dao cả hay sao. Dấy là một câu hỏi không có lời giải dáp.
Vụ án Vĩnh Hảo phai nhạt dần theo thời gian. Giữa lúc người Sài Gòn gần như dã quên lãnh câu chuyện dó, thì dùng một cái, tờ Tiếng Chuông may mắn vớ dược nguồn tin nhà triệu phú lấy vợ lần thứ tư, lập tức cho mẫu tin dó lên trang nhất, làm khuấy dộng dư luận quần chúng lần nữa.
Tờ Tiếng Chuông thường ngày chỉ in 200,000 tờ, nhưng với tin sốt dẽo này, ông chủ nhiệm cho in thêm 100,000 tờ nữa mà vẫn bán vèo một cái là hết. Những tờ Buổi Sáng, Tiếng Dân, Tiếng Dội dâu có chịu thua, các phóng viên dược lệnh phải diều tra thân thế của bà phu nhân thứ tư, và dĩ nhiên xào nấu vẽ rắn thêm chân cho ly kỳ dể câu dộc giả. Di xa hơn nữa, nhiều phóng viên còn dưa ra lời tiên doán, xem lần này bà tư có dột ngột từ trần như những bà trước hay không.
Ngôi biệt thự của ông Vĩnh Hảo toạ lạc tại vùng Ngã Tư Bảy Hiền gần bên khu dất thánh tây. Hồi dó người ta thường gọi những nghĩa trang của người Pháp với cái tên như thế, chắc là vì những cây thập tự gía cắm trên dầu những ngôi mộ xây bằng xi măng theo kiểu Gotic trông thật trang nghiêm và dầy nét thiêng liêng kỳ bí.
Nghĩa trang dược bao quanh bằng một hàng rào sắt cao phải gần ba thước dể phòng người dột nhập vào. Hai cánh cửa sắt lớn bao giờ cũng dóng im ỉm vì hiếm khi có người vào thăm.
Khu dất thánh rộng phải mấy chục mẫu dất, hàng trăm ngôi mộ nằm im lìm, thấp thoáng giữa những cây cổ thụ mọc rải rác khắp nơi. Nhiều tấm bia dá dã lâu không có người chăm sóc, thăm viếng, ngã xiêu ngã vẹo lẩn trong những bụi cỏ um tùm.
Có những cây sao già cao dến mười mấy thước, hàng năm vào dộ cuốu hè dầu thu, những hột sao nhỏ bằng dầu dũa dược bọc trong một cái vỏ có hai cái cánh như cánh chuồn chuồn rời cành bay xuống lả tả, trông ngoạn mục giống như những cái chong chóng.
Một con dường nhỏ trải dá sỏi từ cổng di vào trong, nó tẻ ra làm nhiều nhánh và mất hút vào chốn sâu thẳm tận cùng của nghĩa dịa, hai bên dầy lùm bụi rậm rạp. Ở chỗ ngã ba con dường, người Pháp dặt một cái bệ dá cao khoảng một thước, bên trên dúc tượng thiên thần Gabriel có dôi cánh sau lưng, tay cầm gươm dè lên gáy con quỷ Satan dang quì cúi gằm dầu.
Tượng thánh Gabriel dã dẹp và sinh dộng lắm rồi, nhưng tượng của Satan càng sắc sảo hơn. Không biết rằng niềm ngẫu hứng nào mà người diêu khắc gia dã gắn vào dược dôi mắt của con chúa quỷ cái nhìn trừng trừng dầy thứ ánh lửa của huỷ diệt. Dôi mắt long lên dữ tợn, mà những người từng vào thăm mộ không mấy ai dám dứng nhìn lâu vào.
Chỉ trong một khoảng khắc ngắn ngủi, người ta có cảm giác rằng dôi mắt dó dang chuyển dộng, nó phóng ra những tia thôi miên ma quái, trong dầu của người ngắm nó rền rền một tiếng vọng kinh dị như từ tận dáy dịa ngục. Hãy theo ta....hãy theo ta.....Cái miệng của con quỷ há to dầy vẻ dau khổ vì dang chịu sự trừng phạt của thượng dế từ sức mạnh lưỡi gươm của thiên thần Gabriel.
Nhưng hai bàn tay dầy móng vuốt của nó chóng xuống mặt bệ trong tư thế dầy dọa nạt. Người Pháp lúc lập nên cái nghĩa dịa này không hiểu tại sao lại cho dúc tượng quỷ Satan làm gì, nó làm cho hoàn cảnh nghĩa trang trông có vẻ nặng nề ma quái hơn là thánh thiêng.
Khu Ngã Tư Bảy Hiền ở ngoại ô Sài Gòn còn hoang vu lắm, lau sậy, ao vũng còn nhiều. Mỗi buổi chiều chạng vạng, lúc không gian dã mờ tối, nghĩa trang thánh Tây chìm trong cõi âm u trầm mặc, không ai dám lảng vảng dến hay di qua. Lũ trẻ con thì càng tránh xa hơn cả.
Trong trí óc non nớt dầy dẫy những sự tưởng tượng, chúng hình dung những cái xác chết khô trỗi dậy từ dưới dáy mộ bay di tìm con người sống dể hút máu tươi, mà chúng một dôi lần có xem những cuốn phim Dracula hay do người lớn di xem kể lại.
Những tưởng ở giữa một khung cảnh hoang vắng dìu hiu dầy những linh ảnh ma quái như vậy, không có sự hiện hữu của con người, nhưng thật ra thì có một ông gài gác nghĩa trang sống trong một căn nhà nhỏ gần cổng ra vào.
Người Pháp rút về nước dã lâu, dâu có còn ai trả lương cho ông gác dất thánh nữa. Nhưng có lẽ cư ngụ dã lâu, quen nơi quen chốn, ông già không phàn nàn gì. Mãi về sau này, thành phố Sài Gòn cho phép cả người Việt chôn cất thân nhân trong khu dất thánh Tây này, ông già dược chuyển làm nhân viên thành phố ăn lương. Ông là ứng viên duy nhất, vì chẳng ai dám tranh với ông dể vào ở cái nơi âm u dó.Bọn trẻ con quanh khu dất thánh nhìn ông bằng cặp mắt nửa nễ phục nửa ghê sợ. Nễ phục vì ông dám ở giữa nghĩa trang một mình năm này qua năm khác, mà có cho vàng cũng không ai dám vào trong dó dù chỉ một dêm.
Ghê sợ vì cái hình dáng cục mịch, cái dầu hói lơ thơ tóc và cái mũi khoằn khoằn trông thẳng khác gã người hầu của Dracula bao nhiêu. Mỗi buổi sáng ôm cặp di học ngang qua, mỗi buổi chiều tan học di về, bọn trẻ con thường thấy ông già ngồi cặm cụi dan rỗ thúng, dôi mắt dục ngầu dầy những sợi chỉ máu của ông nhếch lên, chẳng biết là cười hay là doạ. Bọn học trò co giò bỏ chạy. Vừa chạy vừa la. Ông già nhìn theo lắc dầu ngơ ngác.
Người ta tự hỏi tại sao một con người giàu có như ông Vĩnh Hảo mà lại chọn ra ở nơi vắng vẻ như vậy.
Thiếu gì ngôi biệt thự dẹp dẽ trong thành phố dể cư ngụ và vui hưởng những thú vui vật chất của một ông triệu phú.
Có một lý do có thể trả lời dược nghi vấn nầy. Ông Vĩnh Hảo kinh doanh ngành nhà dất và thầu khoán xây cất, có thể ông tiên doán dược tương lai phát triễn của khu Bảy Hiền, nên ông dã mua hàng trăm mẫu dất ở dây và cho cất một ngôi biệt thự dể thu hút người mua dất và cất nhà.
Dẫu biết rằng trong ngôi biệt thự từng dã có ba người chết, nhưng trước sức quyến rũ qúa mạnh của vật chất, những cô gái hay những người dàn bà khó có thể cưỡng lại dược cái gàiu có và danh vọng của ông Vĩnh Hảo, nên ông dã dễ dàng tìm dược bà vợ thứ tu cho mình.
Cuộc hôn nhân này dường như do dịnh mệnh dun rủi hay sao, mà có một ngày người tài xế lái xe chở ông di công việc dã tông phải một cô gái dang lơ dểnh băng qua dường. Ông Vĩnh Hảo nhảy xuống xe cùng anh tài xế vực cô gái lên chở dến bệnh viện. Dù không phải lỗi của mình, ông Vĩnh Hảo tự thấy có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc cho cô gái.
Hàng ngày dù bận công việc dến mấy, ông vẫn dành thì giờ vào thăm viếng tặng hoa cho nàng. Cô gái là một nữ sinh viên Văn khoa năm thứ tu8 ở dộ tuổi không còn trẻ, mà chưa phải dã qúa thời, chỉ khoảng trên dưới hai mươi lăm.
Ông Vĩnh Hảo mới trên bốn mươi. Sự cách biệt tuổi tác không ngăm cấm dược nhịp dập của tình yêu, nên khi nàng xuất viện thì ông Vĩnh Hảo dã quì xuống dâng cho nàng một chiếc nhẫn hột xoàn lóng lánh, thiết tha mời nàng về làm bà chủ cái tài sản khổng lồ của ông.
Theo thông lệ, ông Vĩnh Hảo dắt người vợ mới cưới của mình vào nghĩa trang dặt những bó hoa tưởng niệm lên bia mộ của ba bà vợ trước, dể trình diện người vợ trẻ thứ tư, mà chắc là cũng dể cầu xin sự thông cảm từ linh hồn của các bà, hãy cho phép ông dược di bước nữa.
Ông Vĩnh Hảo dã tặng cho ông già gác nghĩa trang một số tiền khá hậu dể nhờ thăm sóc giùm mồ mã của những người vợ qúa cố dược tươm tất sạch sẽ. Ông già cảm kích lắm. Ba nấm mộ nằm phía sau khu dất thánh Tây cùng với nhiều ngôi mộ người Việt khác nên ông Vĩnh Hảo phải dìu vợ di xuyên qua khu rừng thưa mờ mờ ánh sáng.
Lúc giữa trưa mà nghĩa trang sao im ắng tịch mịch qúa, cả dến tiếng chim hót cũng không. Chỉ có năm ba con quạ den dậu chót vót trên những ngọn cây sao. Thỉnh thoảng chúng cất tiếng kêu khàn khàn dượm dầy vẽ thê lương. Bà Vĩnh Hảo rùng mình ôm chặt lấy cánh tay chồng, làm ông Vĩnh Hảo dâm ra hối hận. Lẽ ra ông không nên dem bà vào những chỗ buồn thảm lành lạnh mùi tử khí như thế này.
Hiếm có một người dàn ông nào phải mang mễn trong lòng nỗi dau dến ba lần mất vợ như ông Vĩnh Hảo.
Cũng hiếm có một người chồng nào phải ngậm ngùi dặt nhiều bó hoa tưởng niệm trước những nấm mộ của những người vợ qúa cố như ông.
Cùng với bà vợ thứ tư, nhà triệu phú u sầu dặt ba bó hoa huệ trắng tựa vào những tấm mộ bia. Ba ngôi mộ cao to xây bằng xi măng nằm song song nhau trên một cái gò dất, bên ngoài dược phủ lên bằng dá cẩm thạch trắng, những hàng chữ khắc dược phủ kim nhũ dắt tiền vàng lóng lánh.
Nhưng dặc biệt hơn cả, hình chân dung của những bà vợ quá cố của ông Vĩnh Hảo rọi lớn và dược cẩn sâu vào tấm bia, dược bảo vệ bằng một tấm kính thuỷ tinh dầy hình bầu dục ánh màu xanh biếc.
Hình vẫn còn mới, nụ cười của những người dàn bà rất tươi tắn, vì dã dược chụp trong thời kỳ hạnh phúc, nên khi ngồi bên mộ và nhìn vào tấm bia cẩm thạch, bà vợ thứ tư không bị cái cảm giác nặng nề cúa sự chết và cái không khí huyễn hoặc thâm u của nghĩa trang dè nặng lên tâm tưởng của bà.
Bà chăm chú nhìn vào dôi mắt hiền từ cúa bà vợ thứ nhất, khuôn mặt phúc hậu của bà thứ hai và dôi môi nhỏ hình trái tim của bà thứ ba. Một dám mây lớn màu xám che khuất chiếc dĩa mặt trời dang toả nhiệt chói chang, làm cho khoảng không gian bao phủ nghĩa trang bị tối sầm lại.
Mấy con qụa trên ngọn cây xoè rộng dôi cánh den cất tiếng kêu oang oác tạo thành chuỗi âm thanh ngân nga kỳ dị trong buổi trưa hè tịch mịch. Khuôn mặt nhìn nghiêng của bà thứ ba bỗng xoay lại nhìn bà Vĩnh Hảo, dôi môi của nàng chợt há to trong một trạng thái kinh hoàng, như dang kêu thét cầu cứu.
Bà Vĩnh Hảo hoảng hốt lùi lại tựa vào tấm bia của bà hai, khuôn mặt vô tình áp sát vào cái chân dung của người chết, thì trời ơi, bà trông thấy dôi mắt trên tấm bia hấp háy, con ngươi mở to hết mức, như dang trông thấy một hình ảnh kinh khiếp nào dó. Bà Vĩnh Hảo kêu rú lên:
--Anh ơi...
Ông Vĩnh Hảo dang trầm mặc trước tấm bia của người vợ thứ nhất, ông giật mình bước sang nắm lấy tay vợ hỏi dồn:
--Chuyện gì vậy em ?
Dám mây dã trôi xa, không gian sáng hừng lên, bà Vĩnh Hảo dụi mắt nhìn lại những khuôn mặt trên bia dá. Chẳng có gì cả. Có lẽ bà dã trải qua một cơn ảo giác không có thật. Bà Vĩnh Hảo run giọng:
--Không....không có gì...có lẽ em hoa mắt...
--Em thấy gì ?
--Không...không, chẳng có gì cả.
Lúc ra về, bà Vĩnh Hảo dã dứng bên cái bệ ngắm nghía tác phẫm diêu khắc "Thiên Thần Và Ác Quỷ" Thánh Gabriel nhìn nàng bằng dôi mắt từ ái, một tia ánh sáng huyền nhiệm lóe lên từ dó. Nhưng khi dời mắt sang quỷ Satan, thì dột nhiên bà Vĩnh Hảo có cái cảm tưởng rờn rợn, rằng dường như bà thoáng bắt gặp dôi mắt của nó mới vừa hấp háy.
Từ ánh mắt của nó lấp loáng một thứ sáng màu xanh kỳ dị, có lẽ là do phản ảnh từ chất dồng thau, tia nhìn của con quỷ xoáy sâu vào mắt người thiếu phụ. Bà Vĩnh Hảo giật mình lùi lại níu chặt cánh tay chồng hơn. Ông Vĩnh Hảo ôm lấy vợ lo lắng:
--Gì vậy em ?
Bà Vĩnh Hảo tái mặt lắp bắp dưa tay lên:
--Dôi mắt...dôi mắt của..nó nhìn..em...
Nhà triệu phú nhìn theo ngón tay cúa vợ dang hướng vào khuôn mặt nhăn nhó dau khổ của Satan, nhưng ông nào có thấy gì dâu. Nó chỉ là một bức tượng dồng vô tri vô giác và vô hại. Ông Vĩnh Hảo nhún vai:
--Có gì dâu, chắc là em bị chói nắng dó..Dể anh dưa em về.
Bà Vĩnh Hảo dưa tay lên vò hai bên thái dương cau mài:
--Em nhức dầu quá...
Tình thực thì trong dầu bà dang rền rền một chuỗi âm thanh kỳ bí, mơ hồ như vọng từ một dáy vực sâu lạnh lẽo nào dó.
--Hãy theo ta...Hãy theo ta...
Buổi cơm chiều hôm ấy, vẫn còn bần thần vì ánh mắt ma quái của bức tượng dồng, bà Vĩnh Hảo dã bỏ ăn và nằm lì trong phòng. Trong một ngày mà bà phải trải qua hai cơn ảo giác ghê rợn như vậy, thần kinh bị xáo dộng dữ dội, bà Vĩnh Hảo có cảm giác hàng ngàn cái vòng nước dang liên miên bủa vào não bộ của mình, giống như mặt hồ thu bị khuấy dộng vì những viên dá.
Những dĩa thức ăn của chú Năm Robert, một người dầu bếp mẹ Việt cha Pháp, nấu rất ngon nằm câm nín trên chiếc bàn gỗ bóng loáng, vì ông Vĩnh Hảo chỉ gắp qua loa vài miếng, rồi ông cũng theo vào phòng dể chăm sóc vợ.
Chú năm Robert cùng với anh Nên tài xế và chị Bông giúp việc dành phải dọn hết xuống nhà dưới ăn với nhau.
Ông Vĩnh Hảo âu lo ngồi một bên người vợ dang nằm úp mắt xuống chiếc gối, dưa tay vuốt nhẹ mái tóc óng ả thơm ngát của nàng nhẹ giọng:
--Liễu em, hết nhức dầu chưa ?
Liễu xoay người mở mắt nhìn lên cảm dộng:
--Dỡ nhiều lắm rồi...Có lẽ em bị cảm anh à.
Ông Vĩnh Hảo cúi xuống hôn lên trán vợ:
--Em nằm nghỉ dể anh kêu chú Năm nấu chút cháo nóng cho em nghe ?
Liễu nắm tay chồng:
--Thôi anh,em chỉ muốn nằm nghỉ, chắc một lát là hết mà.
Dến giờ ngủ, ông Vĩnh Hảo lấy một cái gối ôm dài chận giữa hai người, trong lúc Liễu nhìn lạ lùng:
--Anh làm gì vậy ?
Ông cười cười:
--Em bệnh, anh không muốn quấy rầy em !
Liễu không thể không bật cười khúc khích, dù nàng vẫn còn nhức dầu lắm:
--Nhưng nếu em muốn anh quấy rầy em thì sao ?
Hai cánh tay tròn lẳn mát rượi của Liễu vòng lấy gáy của chồng kéo ghịt xuống, dôi môi nhỏ áp chặt vào miệng ông. Ông Vĩnh Hảo rủn người dê mê. Ôi, dôi môi của nàng thơm ngọt quá chừng. Chiếc lưỡi mêm mại của nàng quấn lấy lưỡi ông xoắn xít như một con rắn quấn mồi.
Liễu dá tung chiếc gối ôm văng khỏi chiếc giường nệm, dôi môi nàng thì thầm bên tai chồng:
--Anh quấy rầy...em di...anh...
Hơi thở thơm như hương hoa của Liễu phả nhẹ vào mũi chồng:
--Em yêu anh !
Dến dây thì ông Vĩnh Hảo hoàn toàn chịu thua. Cái thân thể mơn mởn của Liễu áp sát vào, ông có thể cảm nhận dược hơi ấm nồng nàn từ khuôn ngực săn chắc của nàng truyền sang làn da của mình.
Ông Vĩnh Hảo run người trong một trạng thái khoái cảm lâng lâng, ông nhìn mê dắm vào cái thân thể trắng ngà của vợ mờ ảo ẩn hiện sau lớp áo ngủ mỏng dính bằng dôi mắt háo hức. Nhưng Liễu dã hóm hĩnh mĩm cười và dưa tay bấm cái nút cảu chiếc dèn ngủ trên chiếc bàn nhỏ dầu giường.
Trong bóng tối, những bàn tay cuống quít sờ soạng dan vào nhau, dể dến một lúc ông Vĩnh Hảo thấy mình dang ôm chặt trong vòng tay một tấm thân nóng như lửa nhưng trơn như tuột như một con bạch tuộc, với những chiếc vòi hối hả uốn éo cuốn nhanh người ông....Nửa khuya, bà Vĩnh Hảo chợt thức giấc. Cơn nhức dầu buổi chiều dã tan biến mất. Bây giờ thì Liễu thấy dói, nàng thèm ăn một chút gì dó cho dỡ xót ruột, vì cái dạ dày cúa nàng dang sôi lục ục.
Dưới ánh sáng mờ của vầng trăng hắt vào khung kính cửa sổ, Liễu tìm nhặt chiếc áo ngủ khoác lên. Sợ chồng giật mình, Liễu nhẹ nhàng trèo xuống giường rón rén mở cửa phòng bước ra ngoài.
Cái hành lang dẫn xuống nhà bếp tối om, dài hun hút. Liễu bỗng thấy ớn lạnh, nàng tìm cái công tắc dèn. Ánh dèn vàng sáng bừng lên làm cho nàng thấy yên tâm. Căn biệt thự rộng mênh mông lúc giữa khuya im ắng không một tiếng dộng, chỉ có tiếng của bọn dun dế rỉ rả ngoài cõi dêm.
Từ phòng khách vọng vào tiếng gõ trầm buồn của chiếc lắc dồng hồ. Dã một giờ khuya rồi. Liễu ngần ngừ, nửa muốn di tìm cái ăn, nửa muốn trở vào. Nhưng dã gần một ngày nhịn dói, nàng không thể không ăn. Liễu chặc lưỡi. Ăn cái dã, rồi tính sau.
Khi nàng di dến gần nhà bếp, thì dột nhiên cánh cửa sổ dối diện với cái nghĩa trang dánh sầm một cái cực mạnh làm Liễu tái mặt ôm ngực lùi lại nhìn trừng trừng về hướng khung cửa. Trong bóng tối mờ, nàng trông thấy hai cánh cửa dang từ từ mở rộng, như có một người nào dó dã dùng tay dẩy ra, nhưng chẳng thấy ai cả. Rồi dột ngột hai cánh cửa dập ầm ầm vào khung gỗ, như người ta khép mạnh nó trong một cơn giận dữ.
Trái tim của Liễu dập thình thịch trong ***g ngực.Dôi mắt màu xanh biếc của bức tượng Satan ngoài nghĩa dịa chợt hiện lên trong ý nghĩ của Liễu làm nàng xoay người dịnh bỏ chạy về phòng, nhưng một cơn gió lạnh từ khung cửa ùa vào thổi tung cái vạt áo ngủ của Liễu, tiếp theo với tiếng dập dánh ầm của hai cánh cửa sổ. Hóa ra chỉ là cơn gió từ khu dất thánh Tây dã dánh vào kính cửa sổ dã tạo nên thành hiện tượng dó. Có lẽ chị Bông hay chú Robert dã quên cài chốt rồi.
Liễu bật công tắc dèn nhà bếp lên. Ánh sáng trắng của chiếc dèn néon dài dã xua tan nỗi sợ hãy xốn xang của Liễu, nàng khép hai cánh cửa kính và cẩn thận cài chốt. Bên kia dường, có tiếng chó tru dêm. Liễu áp sát mặt vào tấm kính nhìn sang. Dưới ánh trăng, bóng một chó hoang nổi den lên trên một ngôi cổ mộ dang ngước cái mõm dài của nó tru một hơi dài.
Cái thiên tính tru trăng của loài chó rừng vẫn còn tiềm dọng trong từng sớ thịt của loài chó hoang, nên ở giữa dêm khuya trong dám cây cổ thụ, cái thiên tính dó dã trỗi dậy. Tiếng tru của con chó áo não, rờn rợn như tiếng kêu hú của những âm hồn từ dưới dáy mộ sâu.
Liễu rùng mình không dám nhìn nữa, nàng quay người mở tủ lạnh chọn một dĩa dồ nguội ngồi quya lưng về cửa sổ ăn nhanh. Dẫu biết rằng dằng sau nhà bếp là dãy nhà của anh Nên tài xế và chú Năm Robert, chị Bông thì cư trú trong cái phòng sát bên cánh cửa dẫn ra cái vườn nhỏ chỉ cách nhà bếp một cái nhà kho, nhưng giữa dêm trường tịch mịch, thỉnh thoảng con chó gớm ghiếc tru lên một tràng dài, Liễu thấy lạnh cả người và không khỏi tưởng tượng những chuyện ghê rợn từ khoảng bóng tối den dặc dó.
Người ta nói rằng, một khi con chó nó tru, thì chắc nó dã trông thấy...ma...Những âm hồn nửa dêm trồi lên khỏi mộ kéo nhau di lang thang từng doàn, mà chỉ có loài chó mèo hay cú dêm mới nhìn thấy.
Liễu cố ăn cho xong dế có thể trở về nằm trong dôi cánh tay bảo bọc của chồng. Dột nhiên, Liễu có cái cảm giác lành lạnh trên gáy, linh tính bảo cho nàng từ phía sau. Cái cảm giác dó càng lúc càng dậy lên mãnh liệt cùng với cơn sợ hãi dang rùng rùng kéo trở về. Liễu tê cứng người vì sợ. Nàng biết chắc, trời ơi, có một người dang chằm chằm nhìn nàng từ phía.....Liễu run bắn người, tay chân lạnh cóng, rờn rợn, nàng từ từ dứng lên...rồi chầm chậm quay người lại....Con chó trong nghĩa trang bỗng tru lên một tiếng dài kinh dị. Cùng lúc, Liễu trông thấy ba khuôn mặt den nhẻm dang áp sát vào khung kính cửa sổ từ phía ngoài nhìn vào. Liễu kinh hoàng ôm cứng cái dĩa dồ nguội trong lòng. Cũng may là Liễu dang dứng giữa vùng ánh sáng, chứ nếu ở trng bóng tối, thì chắc nàng dã dứng tim ngã ra chết rồi.
Ba cái mặt con người nhe hàm răng trắng nhỡn cười với vẽ hiền lành, một người dưa tay lên gõ cành cạch vào cánh cửa ra dấu muốn nói chuyện. Liễu hoàn hồn thở phào một cái thật dài. Nàng cứ tưởng họ là những âm hồn từ bên phía nghĩa trang sang dây hù nhát mình, hoá ra không phải. Có lẽ là mấy người hàng xóm ở gần dâu dây. Nàng biết có mấy cái xóm dệt của người Bắc di cư vào sinh sống trong khu vựa này. Dến bây giờ thì nàng dã nhận rõ, chỉ là một người dàn ông, một dàn bà và một thằng nhỏ chừng mười tuổi. Có lẽ là một gia dình. Liễu dặt cái dĩa xuống bàn và di dến mở cánh cửa sổ ra hỏi:
- Ai dó ?
Người dàn bà mặc chiếc áo bà ba nâu, tóc búi củ hành chìa tay rên rỉ:
- Dạ bà chủ cho xin chút thức ăn, dói qúa bà chủ ơi....
Liễu ngạc nhiên:
- Chú thiếm ở dâu vậy ?
Người dàn ông chấp tay:
- Dạ thưa bà chủ, chúng tôi cũng ở gần dây thôi, nghèo dói qúa bà chủ, cực chẳng dã mới di xin ăn !
Là người có từ tâm, Liễu thấy mủi lòng ngay, nàng sốt sắng gật dầu:
- Dược, dược, chú thiếm chờ một chút nha.
Liễu tìm thấy một cái gà mên, nàng trút hết thức ăn trong tủ lạnh trao cho người dàn bà, ân cần:
- Chú thiếm nhận dỡ cái này, khuya quá chỉ còn bấy nhiêu thôi.
Người dàn bà cúi dầu cảm dộng nhận cái gà mên:
- Bà chủ tử tế qúa, chúng tôi dội ơn....
- Không có chi, chú thiếm cứ giữ lấy cái gà mên mà xài. À...hay là chú thiếm chờ ở dây tôi vào lấy cho thiếm ít tiền.
- Dạ, khỏi bà chủ, chúng tôi không cần tiền !
Thằng nhỏ ngước dôi mắt ngây thơ nhìn Liễu cười.
Liễu trở vào cái tủ chứa dồ khô, nàng tìm thấy một hộp bánh biscuit còn nguyên chưa lột giấy kiếng, nàng thò tay ra ngoài cửa xoa dầu thằng nhỏ và dưa hộp bánh cho nó:
- Em ngoan, chị cho em cái hộp bánh nè.
Thằng nhỏ khoanh tay lễ phép:
- Dạ con cám ơn cô. Cô tốt quá, mấy bà chủ hồi trước không dược như....
Người dàn bà nạt ngang:
- Tí, không dược nói bậy...
Bà quay sang Liễu cười xuề xoà:
- Cám ơn bà chủ nhiều lắm, thôi bà chủ vào nghỉ kẻo khuya, xin cầu Trời Phật phò hộ bà chủ.
Dôi vợ chồng chấp tay cúi dầu chào liễu, người dàn bà nắm tay thằng nhỏ dẫn di. Thằng Tí xem chừng mến Liễu lắm, di dược chục bước, nó quay lại nhìn Liễu vẻ tha thiết. Liễu bần thần dứng trông theo ba cái bóng den khuất dần trong màn dêm.
Dến khi dã nằm êm ấm bên cạnh chồng rồi mà Liễu vẫn chưa nghĩ ra dược những diều lạ thường. Tại sao nhóm người ăn xin dó tìm dến giữa khuya, mà không phải là giữa ban ngày. Tại sao họ xuất hiện ở cửa sau, mà không phải là ở cửa trước. Và lại dúng lúc nàng dang ăn. Mí mắt nặng chình chịch, Liễu xuay người quàng tay lên ngực chồng và chìm rất nhanh vào giấc ngủ. Nàng cũng dã quên không tự hỏi, cái sân vườn phía sau dược xây kín bằng vòng tường cao và không có cửa ra, vậy thì ba cái con người dó họ di dâu.
Trưa hôm sau, nhân lúc cùng ông Vĩnh Hảo nắm tay di dạo dưới những bóng râm trong vườn, Liễu sực nhớ chuyện ba người ăn xin dêm qua, nàng kéo chồng di lại cái cửa sổ. Liễu cúi người nhìn xuống chân tường. Ủa lạ chưa kìa, sao không thấy dấu chân nào hết. Dất không cứng lắm, nếu họ dứng ở dây thì phải có dấu chứ. Liễu ngước mặt nhìn lên khung cửa sổ, nàng dưa thẳng cánh tay mới với tới. Dột nhiên Liễu rùng mình ôm lấy cánh tay chồng lẩm bẩm.
- Cao qúa, cao qúa....làm sao có thể như thế dược nhỉ ?
Ông Vĩnh Hảo thấy thái dộ lạ lùng của vợ, ông ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì vậy em ?
Liễu lắc dầu ngơ ngác:
- Lạ thật !
Liễu dẩy ông Vĩnh Hảo dứng ngay dưới khung cửa hấp tấp bảo:
- Anh dứng ở dây chờ em một chút nha....
Trong lúc ông Vĩnh Hảo lắc dầu chẳng hiểu gì cả thì Liễu dã chạy vào trong nhà bếp nhìn xuống qua khung cửa sổ. Ông Vĩnh Hảo cười khì:
- Em dịnh chơi trò trốn núp với anh hả ?
- Anh nhảy lên thật cao cho em xem....
Ông Vĩnh Hảo ngỡ là vợ muốn ông làm trò vui, ông nhún mình lên nhìn vợ cười. Liễu vẫn lắc dầu:
- Anh nhảy cao chút nữa dược không ?
Ông Vĩnh Hảo cố sức nhảy thêm mấy cái rồi dưa hai tay lên chịu thua:
- Thôi anh dầu hàng, anh già rồi, hì hì....
Liễu bước ra ngoài, trong lòng bần thần dậy lên nhiều câu hỏi. Nếu những người ăn xin dó dứng chạm mắt vào khung kính, thì ít nhất họ phải bắt ghế dứng, chân ghế phải lún sâu vào dất chứ. Dù họ có nhảy cao dến thế nào, thì cũng vẫn không thể ngang tầm với cánh cửa như dêm qua dược.
Dến buổi chiều, trong lúc ông Vĩnh Hảo có công việc di vào Sài Gòn, Liễu xuống nhà dưới tìm chị Bông. Bông dang hứng nước vào cái thùng sô rửa rau tiếp chú Robert. Thấy bà chủ, chú Robert và chị Bông dứng dậy chào:
- Thưa bà chủ.
Liễu gật dầu, nàng kéo chị Bông ra một chỗ hỏi:
- Dêm hôm qua chị có thấy ai vào sân nhà mình không ?
Chị Bông ngơ ngác lắc dầu:
- Dạ...không có ai. Cửa rào lúc nào cũng khóa, không ai vào dược da6u.
Liễu cắn môi:
- Lạ thật !
- Dạ, bà chủ nói gì !
- Chị, chú Robert với anh Nên có bà con nào tới thăm không ?
- Dạ không.
- Thôi dược rồi, chị làm việc tiếp di.
Khuya dêm dó, trong lúc ông Vĩnh Hảo ngủ say, Liễu lại rón rén di xuống nhà bếp. Mặc dù trong lòng rờn rợn, nhưng Liễu muốn có câu giải dáp cho những nghi vấn lạ lùng của nàng. Liễu bắt dầu diễn lại tấn tuồng ăn uống.
Liễu lắng nghe tiếng tru dài của con chó trong nghĩa trang. Nó dã tru thì chắc là nó dã thấy những linh ảnh ma quái nào dó. Có lẽ những âm hồn dưới dáy mộ dã trỗi dậy rồi. Dột nhiên cái cảm giác bị nhìn ùn ùn dậy lên từ sau gáy, sống lưng Liễu lạnh buốt, rần rật. Chắc là "họ" dã dến. Lấy hết can dảm, Liễu dứng lên và từ từ xoay người lại nhìn về khung cửa sổ, dôi mắt hấp háy chờ dợi sẽ trông thấy dôi vợ chồng và thằng bé. Dù dã chuẩn bị tinh thần và biết chắc những người ăn xin rất hiền lành, nhưng khi trông thấy hai khuôn mặt hoàn toàn lạ áp mặt vào cửa kính nhìn nàng, Liễu vẫn giật mình thảnh thốt, chiếc dĩa trên tay nàng rơi xuống dất vỡ tan.Chị Bông dang quấn quít rên rỉ với anh tài xế Nên, nghe tiếng dộng chát chúa bên nhà bếp, chị hoảng hốt tròng áo quần vào chạy sang, trong lúc Nên phóng vù về căn phòng của mình. Chị Bông trông thấy bà chủ của mình tái mặt dứng sững người nhìn trừng trừng về hướng cửa sổ, chị kêu lên:
- Bà chủ, có chuyện gì vậy ?
Liễu lắp bắp:
- Có...có....người....lạ.....
Bông nhìn theo, nhưng chị chẳng thấy gì hết, chị hỏi dồn:
- Ai vậy bà chủ ?
Liễu lắc dầu:
- Tôi không biết.
Hai cái khuôn mặt dàn ông dã nhanh chóng biến mất sau tiếng bể vỡ của cái dĩa. Ông Vĩnh Hảo nghe ồn, ông mặc pyjama di xuống dưa mắt nhìn chị Bông hỏi:
- Chuyện gì vậy chị Bông ?
Chị Bông ấp úng:
- Dạ, bà chủ trông thấy có người lạ.....
Ông Vĩnh Hảo nắm tay vợ dịu vàng:
- Chuyện gì vậy em ?
Liễu bối rối chỉ vào cánh cửa sổ:
- Em mới vừa thấy có người dứng bên ngoài nhìn vào.
Ông Vĩnh Hảo lạ lùng bước tới mở toang hai cánh cửa thò dầu nhìn ra ngoài. Dưới ánh trăng mờ, cảnh vật chập chờn kỳ dị, nhưng ông chẳng thấy gì cả. Chị Bông trao cho ông chủ cây dèn pin, ông bật lên rọi vào khắp khu vườn sau bếp. Cũng chẳng có gì lạ hết. Trong lòng thầm cho là vợ mình dã tự tưởng tượng, thần hồn nhát thần tính, ông quàng tay ôm vợ dáng che chở và trấn an:
- Không có gì dâu em, thôi mình lên nghỉ di.
Liễu nằm co rúm trong lòng chồng, nàng thủ thỉ kể lại câu chuyện dôi vợ chồng và thằng bé xin ăn dêm qua, và hai người dàn ông lạ khác dến dêm nay. Ông Vĩnh Hảo nhíu mày suy nghĩ, trong lòng ông dậy lên một nỗi âu lo bứt rứt. Ngày mai ông phải dẫn vợ di khám bác sĩ tâm thần mới dược.
Bác sĩ cho toa mua thuốc an thần, Liễu ngủ yên dược mấy dêm, nhưng biết uống thuốc ngủ mãi sẽ gây ra hiện tượng "lờn thuốc", có hại hơn, nên nàng lén chồng không uống nữa. Liễu dã giả vờ ngủ say dể ông Vĩnh Hảo dược an lòng. Bác sĩ dã nói riêng với ông Vĩnh Hảo, rằng rất có thể bà Vĩnh Hảo mắc chứng hoang tưởng. Những người bị bệnh này cho là họ dã nhìn thấy những người, thú hay cảnh vật kỳ dị, thậm chí ma quỷ nữa, trong khi người lành mạnh chẳng hề nhìn thấy như vậy bao giờ.
Nhưng cho dù người thân hay bác sĩ trấn an và giải thích dến như thế nào, người mắc chứng hoang tưởng vẫn khăng khăng là mình dúng. Thật ra Liễu có bệnh gì dâu. Nàng dâu có tưởng tượng, chính nàng dã trông thấy, dã trò chuyện với "họ". Trong ý nghĩ của Liễu, nàng vẫn còn muốn thử lại lần nữa, nhưng thấy sờ sợ, Liễu lại không dám. Thôi thì dừng có xuống bếp lúc nửa dêm và hãy dể cho những con người dó chìm vào quên lãng là tốt hơn cả.
Ông Vĩnh Hảo rất thương yêu vợ, thấy vợ mình mãi băn khoăn những chuyện vớ vẫn không dâu, ông quyết dịnh giao công việc cho một người thân cận, rồi dẫn vợ di du lịch một vòng châu Âu.
Ở châu Âu, bà Vĩnh Hảo trông hồng hào xinh dẹp hẳn ra. Khí hậu miền ôn dới có lẽ dã kính thích từng tế bào trong cái thân thể tràn trề nhựa sống cúa Liễu, cùng với tình yêu nồng nàn của chồng dã khiến cho nàng mơn mởn, phơi phới như một dóa hoa hồng buổi sớm. Một hôm Liễu thẹn thùng kéo chồng vào phòng riêng, nàng ngồi vào lòng ông cuộn tròn như một con mèo nhỏ, hai cánh tay vòng quanh cổ chồng âu yếm:
- Anh ơi, làm một ông nhà giàu thừa mứa vật chất, anh còn ao ước một diều gì nữa không ?
Ông Vĩnh Hảo hôn lên má vợ:
- Thượng dế dã ban qúa nhiều ân sủng cho anh. Dịa vị, danh vọng, xe hơi, nhà lầu, và vợ dẹp....anh không còn dám ao ước gì nữa.
Liễu nũng nịu:
- Có mà, anh ráng nhớ di !
Dôi mắt lóng lánh của nàng nhìn chồng khuyết khích. Ông Vĩnh Hảo gãi dầu suy nghĩ:
- Thật mà, dâu còn gì dể ao ước nữa.
- Thật không ?
Ông Vĩnh Hảo chu môi:
- À, à, coi chừng cái cô Liễu này dố mẹo tôi dây....
Bỗng một ý nghĩ lóe lên trong dầu ông, giống như một tia chớp cắt ngang bầu trời, ông lẩm bẩm:
- Người ta nói vợ dẹp và....c...
Ông Vĩnh Hảo reo lên:
- Em nói dúng, anh còn một diều ước cuối cùng nữa.
Liễu hóm hĩnh nhìn chồng:
- Diều ước thì phải có bà tiên với chiếc dũa thần ban cho.
Ông Vĩnh Hảo mường tượng dã doán ra dược dến năm mươi phần trăm vợ muốn dẫn dắt mình di dến dâu, ông dặt tay lên bụng vợ:
- Vậy thì bà tiên ban cho anh cái ân huệ dó di, Liễu nép dầu vào ngực chồng thủ thỉ:
- Bà tiên cho anh một dứa....con, anh có chịu không ?
Ông Vĩnh Hảo thét lên diên cuồng và ghì chặt vợ vào lòng:
- Anh nhận, anh nhận....Em dã mang thai rồi phải không ?
Năm ngón tay của Liễu bấu vào ngực chồng thay cho câu trả lời.
Gần dến ngày sinh, Liễu thấy mỏi mệt lắm. Không muốn quấy rầy vợ, ông Vĩnh Hảo cho kê một cái giường nhỏ sát vách phòng dể ngủ riêng, nhưng ông vẫn có thể tỉnh giấc khi có chuyện cần. Ông mướn hẳn một cô hộ sinh nhiều kinh nghiệm cư trú luôn ở biệt thự trong hai tháng cuối cùng dể theo dõi sức khoẻ của vợ. Giữa mùa hè, tuy Sài Gòn có nhiều cơn mưa lớn, nhưng cái nóng nhiệt dới vẫn hừng hực phủ trùm lên thành phố, ông Vĩnh Hảo muốn gắn máy lạnh nhưng Liễu không thích tiếng sè sè của chiếc máy, nó làm nàng khó ngủ.
Mỗi dêm ông vẫn thường mở rộng cửa sổ dể dón gió mát của dêm lùa vào. Không hiểu sao dêm nay Liễu thấy trăn trở trằn trọc mãi không ngủ dược, cứ mơ mơ màng màng. Bụng nàng ngâm ngẩm dau, có lẽ dã gần dến lúc rồi chăng. Cô y tá dề nghị ngày mai dưa nàng vào nằm trước trong bệnh viện dể ngừa mọi tai biến ngoài ý muốn. Dứa trẻ cứ dạp liên hồi trong bụng Liễu, nàng dau nhưng sung sướng lắm. Con cứ quấy phá mẹ mãi nhé. Hư lắm. Liễu âu yếm dặt tay lên bụng, trái tim tràn ngập tình thương yêu.
Dột nhiên một cơn gió lạnh thốc vào từ khung cửa sổ thổi tung một góc tấm mền mỏng dắp trên người Liễu. Thật lạ, giữa mùa hè mà cơn gió lại lạnh buốt như là gió bấc mùa dông. Liễu tìm cái công tắc dèn dể bật lên. Bỗng từ phía cái nghĩa trang mà Liễu dã quên mất từ một năm nay, trời ơi, có tiếng chó tru vọng vào rền rền như tiếng vọng từ dưới dáy dịa ngục. Con chó kêu hú như dang trong một cơn kinh hãi nào dó, tiếng tru của nó thỉnh thoảng bị tắt nghẽn bằng những âm thanh ăng ẳng, như là nó dang bị một người nào dó siết sợi dây thòng lọng vào cổ.
Liễu ngồi dậy lắng tai nghe ngóng. Con chó nó tru lớn và ghê rợn dến thế mà ông Vĩnh Hảo và cô y tá phòng bên vẫn ngủ say, cứ như là họ không nghe thấy gì cả. Tiếng tru từ trong nghĩa trang dường như xê dịch dần về hướng biệt thự, mỗi lúc một gần. Trái tim trong ***g ngực Liễu dánh thình thịch. Con chó chắc là dã chạy băng qua dường. Liễu dã có thể nghe tiếng tru của nó rền rĩ phía bên ngoài tường rào, và dã văng vẳng vọng vào cái cửa sổ.
Liễu rụng rời muốn kêu chồng, nhưng miệng nàng nghiến chặt và cứng ngắt như dã bị hóa dá. Nàng gào ằng ặc trong cổ họng kêu cứu, nhưng ông Vĩnh Hảo vẫn ngủ say sưa. Hình như ông chẳng nghe thấy gì hết. Cả cô y tá cũng vậy. Liễu rùng mình. Chẳng lẽ cơn hoang tưởng dã trở về. Nhưng rõ ràng tiếng tru của con chó dang xoáy sâu vào lai Liễu:
- Hú......u....hú....u....hú....u......
Liễu nghe trong âm hưởng tiếng tru thống thiết của con chó hoang không phải muốn hù nhát, mà dường như nó muốn báo cho nàng biết một nỗi nguy hiểm chết chóc dã cận kề. Dột nhiên con chó kêu lên một chuỗi âm thanh nắc nghẹn, nhỏ dần, nhỏ dần:
- Ẳng.....ẳng.....ẳng....
Vài giây sau, chỉ còn có tiếng dun dế rỉ rả trong cõi tịch mịch của dêm trường. Liễu thở ra một hơi dài nhẹ nhõm, nàng thầm nghĩ có lẽ nàng bị bệnh hoang tưởng thật. Liễu nằm xuống kéo cái mên lên dắp ngang ngực. Dược chừng một lúc, có lẽ năm ba phút, trong lúc chập chờn, bỗng Liễu nghe tiếng dộng lạ trong hành lang, nàng mở bừng mắt ngay và ngồi bật dậy lần nữa.
Lần này cái ảo giác dó dã xuất hiện ngay trong nhà nàng. Liễu ôm ngực thở dồn dập, trong lúc một chuỗi âm thanh cồm cộp dộng trên sàn nhà, giống như tiếng....bước chân của một người nào dó. Liễu dưa mắt nhìn về phía ông Vĩnh Hảo, trời ơi ông vẫn nằm thiêm thiếp. Cả cái cô y tá hằng dêm rất ỉnh ngủ cũng mê man dâu rồi.
Tiếng bước chân khô khan, chầm chậm tiến dần, tiếng dần dến căn phòng của vợ chồng Liễu. Liễu ú ớ kêu chồng, nhưng ông Vĩnh Hảo dã xoay người sang một bên, mặt hướng vào vách. Liễu nhìn trừng trừng vào cái nắm tay cửa. Cái con người nào dó nó dã bước dến ngay phía bên kia. Có lẽ "nó" dang dứng ở dó. Một khoảnh khắc im lặng rùng rợn. Trái tim của Liễu dang nở to dần, chỉ một cơn kinh hoàng nữa là nó sẽ bể tung ra thành hàng trăm mảnh.
Cái nắm cửa bỗng nhè nhẹ xoay một vòng. Liễu dưa tay lên miệng nắc nghẹn. "Nó" dang mở cửa. Nàng biết chắc, nếu cái ảo hình kia bước vào phòng, thì cũng chính là giây phút nàng sẽ chết ngất và vĩnh viễn ra di. Trong lòng Liễu thầm mong "nó" không phải là một con ma hay quỷ, mà chỉ là một tên trộm, là một con người bình thường như nàng, và mẹ con nàng sẽ dược sống.
Cánh cửa thường ngày mở dóng rất nhẹ nhàng, nhưng giờ dây nó kêu kèn kẹt như là dã rỉ sét từ lâu lắm rồi. Liễu run run nhìn cánh cửa từ từ mở, nàng thấy một cái bóng den thấp thoáng phía sau. Cánh cửa mở lớn dần....
Dột nhiên "nó" dẩy mạnh cánh cửa dánh sầm vào vách rồi cồm cộp bước vào. Ánh trăng hắt vào từ khung cửa sổ chiếu lên hình dáng một con người nhỏ thó, gồ ghề và trần trụi....Cái bóng den ném xuống chân giường Liễu một cái khối gì dó dánh phịch. Liễu cúi nhìn, nàng ôm ngực hét lên một tiếng kinh hoàng. Cái vật dó chính là con chó hoang mà nó chắc là dã bị giết chết. Cái cổ con chó ngoẹo sâu xuống ngực, có lẽ nó bị bẽ gãy cổ.
Bóng den nặng nề tiến dến gần Liễu, bước chân nặng nề và vụng về.......Dôi mắt Liễu như dã trợn trừng và trồi ra hết mức. Nàng dã kinh hoàng nhận ra, "nó" chính là bức tượng con quỷ Satan trong khu dất thánh Tây. Dôi mắt xanh lè cúa nó lấp loáng chiếu thẳng vào mặt Liễu dầy vẻ hăm doạ. Trái tim của Liễu dường như dang nức bể, nàng có cảm giác thân thể dang chìm dần vào một khối nước dá, cái lạnh dâng phía chân dần lên, từ từ.
Thấp thoáng phía sau con quỷ, Liễu trông thấy ba khuôn mặt quen thuộc dưới những tấm áo chùng den lạnh lẽo, họ nhìn nàng bằng ánh mắt u uất thê lương. Liễu thảng thốt rú lên. Ba con ma dó chính là ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo. Phía sau nữa là hàng chục cái bóng den khác. Có phải tất cả dều là nạn nhân của con quỷ Satan lạc loài này không.
Chẳng biết bằng cách nào, có những lúc nó dã thoát khỏi lưỡi gươm của Gabriel và di tìm những linh hồn người sống làm tôi tớ nô lệ cho nó. Trong cái tích tắc cuối cùng trước khi dứt hơi, Liễu dã có thể biết chắc rằng, ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo dã bể tim chết vì sợ.
Trong cơn sợ hãi khủng khiếp, Liễu ngã vật người xuống, hơi thở yếu dần, trái tim nàng thoi thóp, ***g ngực nàng nhói dau như bị một mũi dao nhọn dâm mạnh vào.
Cái tượng con quỷ cồm cộp bước tơi, nhe răng.....Mười cái móng vuốt sắc nhọn của nó dưa tới như muốn quấu mạnh vào cổ Liễu dể nắm lấy linh hồn của nàng. Nhưng dột nhiên Liễu mơ màng cảm nhận một bàn tay nhỏ bé nắm lấy tay nàng, cùng một giọng trẻ thơ thì thầm:
- Bà chủ....
Liễu giật mình mở chòng mắt ra. Thằng Tí dang nhoẻn miệng cười nhìn nàng, vợ chồng người ăn xin chấp tay chào Liễu, mắt ánh lên nềim thân ái. Liễu nhận ra nhiều cái bóng den dang dứng chắn trước mặt nàng giang tay che chở, những ánh thép loé sáng loang loáng trong bóng dêm. Con quỷ lùi lại mấy bước....Một cái bóng den cao to hùng dũng tiến tới, lưỡi mã tấu trong tay vung lên như một ánh chớp, cái dầu của Satan rớt xuống dất dánh ầm một tiếng.
Con quỷ cuống cuồng cúi xuống nhặt cái dầu dặt lên cổ quay mình bỏ chạy. Những oan hồn lô lệ của nó cũng tan biến mất. Một tiếng sấm rền nố dùng trên bầu trời khuya, tiếp theo một tia chớp ngoằng ngoèo dánh xuống cõi thế gian. Những cái bóng den cứu mạng như những con dơi dêm vút mất qua khung cửa. Vợ chồng người ăn xin tần ngần nhìn sâu mắt Liễu trước khi chia tay, người chồng trầm giọng nói:
- Chúng tôi là nghĩa quân và gia dình bị Pháp chặt dầu chôn ở vùng này, xin ông bà chủ thương tình chay dàn siêu dộ....
Người cha xoa dầu thằng nhỏ:
- Thôi cha mẹ di nghe.
Thằng Tí dùng dằng, mếu máo:
- Cho con di theo với.
Người mẹ ôm con vào lòng nghẹn ngào:
- Con ở với bà chủ cũng như là ở với mẹ mà !
Thằng nhỏ quẹt tay lên mắt, nhưng nó dã nhanh chóng quay lại nhìn Liễu bằng ánh mắt thiết tha. Liễu mĩm cười, bất giác nàng giang tay ôm nó vào lòng.
Ngày hôm sau, báo chí xôn xao loan tin, trong cơn mưa giông dêm qua, cái dầu của tượng quỷ Satan trong khu dất thánh Tây dã bị sét dánh bể nát. Một thời gian sau, nhận thấy bức tượng "Thiên Thần Và Ác Quỷ" dã bị hư hại nhiều và mất tính mỹ thuật, người ta dem xe cần trục dến chở di dâu không rõ. Toàn khu dất thánh Tây từ dó chợt sáng bừng lên. Lũ chim chóc từ bốn phương trời bay về ríu rít hót ca trên những chòm cây sao.
Dù cho những cảnh tượng hãi hùng mà nàng là nhân vật chính torng dó hoàn toàn là sự thật, nhưng Liễu cố tin rằng chúng cũng chỉ là những ảo giác mà thôi. Nhưng Liễu biết chắc, hồn oan của ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo và của những nạn nhân khác, dã dược linh khí bất khuất của nghĩa quân kháng Pháp giải thoát khỏi sự dày doạ của Satan. Nàng giữ kín sự thật dó trong lòng, dù có nói ra thì không mấy ai tin.
Nhưng có một diều dị thường mà nàng không thể chối bỏ và cho là ảo hình dược. Nụ cười của thằng bé Vĩnh Hưng con nàng hoàn toàn giống hệt thằng bé Tí. Ông Vĩnh Hảo sẽ không bao giờ biết dược chuyện này.
HẾT!!
Trong vòng năm năm, ba bà vợ của ông Vĩnh Hảo dều chết một cách rất bí mật. Khi người vợ thứ nhất qua dời, một năm sau ông Vĩnh Hảo tái giá với người vợ thứ hai, là một thiếu phụ góa chồng, nhưng dược một thời gian thì bà vợ này cũng theo chân bà trước.
Nhà triệu phú lấy cô thư ký trẻ hơn ông dến gần hai mươi tuổi làm người vợ thứ ba, tuy là chồng già vợ trẻ, nhưng họ sống hạnh phúc trong những chuỗi ngày ái ân mặn nồng. Ông Vĩnh Hảo ngụp lặn trong bể tình ái, tưởng chừng ông dã dược sống lại trọn vẹn những ngày thanh xuân cũ của một thời trai trẻ hừng hực nhựa yêu dương, thì lại cũng một ngày ông phải dau dớn khóc tiễn dưa người vợ thứ ba về bên kia thế giới.
Ba cái chết mờ ám chỉ trong vòng năm năm buộc nhà chức trách phải dặt nghi vấn, là liệu ông Vĩnh Hảo có dính líu hay không. Cảnh sát không thể không giải ông Vĩnh Hảo về tổng nha thẩm vấn, với tư cách là kẻ tình nghi số một trong vụ án. Những tờ nhật báo lớn có uy tín như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Tiếng Dân dều có dăng những bài tường thuật rất tỉ mỉ về gia thế và cuộc sống của gia dình ông Vĩnh Hảo qua ngòi bút của những phóng viên tên tuổi thời dó. Nhưng trong thực tế, với kỹ thuật phóng dại của nghệ thuật làm báo câu khách, những người viết dã vẽ vời thêu dệt những chuyện gần như là hoang dường. Họ dã tưởng rằng ông Vĩnh Hảo là một con quỷ râu xanh giết vợ không gớm tay, chán bà vợ cũ thì giết và cưới vợ mới trẻ dẹp hơn. Rồi cứ thế, khi con ong dã hút hết vị ngọt của nhuỵ hoa, nó di tìm doá hoa hương sắc khác. Vấn dề tiền bạc không dược nêu lên trên báo, vì cả ba người vợ của ông Vĩnh Hảo dều không có tài sản gì dáng giá trước khi họ về ở với ông.
Nhưng lần này thi báo chí dã hố to. Tạm giam triệi phú Vĩnh Hảo dược vài ngày, thẩm vấn không tìm thấy bằng cớ nào chứng tỏ ông dã giết vợ, nhà chức trách dã thả ông về, ông khỏi phải xin dóng tiền tịa ngoại hầu tra gì cả. Chi tiết duy nhất mà cảnh sát có thể công bố một phần cho báo chí cùng biết, là bác sĩ khám nghiệm dã cho rằng ba bà vợ của triệu phú Vĩnh Hảo chết vì bị truỵ tim vậy thôi. Không có một dấu vết hành hung nào trên thân thể của ba người dàn bà dế cho rằng họ dã bị ông chồng dánh chết, cũng không tìm thấy chất dộc nào trong máu dể gọi là bị dầu dộc.
Như vậy ông Vĩnh Hảo hoàn toàn vô tội, ít nhất là cho tới lúc ấy. Bản thân ông Vĩnh Hảo thì tiều tuỵ thất rõ, hình ông dăng trên trang dầu các báo cho thấy một con người suy sụp, tóc tai rũ rượi, dôi mắt thâm quầng dau khổ. Chỉ một người vợ chết cũng dã dủ là một cú sốc nặng nề lắm rồi, thế mà ở dây ông phải chịu dựng dến ba lần như thế.
Trong ba người vợ, thì ông yêu bà vợ trẻ thứ ba nhiều nhất, có lẽ nàng còn trẻ qúa, ngầy thơ và vô tội qúa mà dịnh mệnh tàn nhẫn không cho nàng dược sống dể cùng hưởng giàu sang và hạnh phúc với ông.
Dân Sài Gòn thì thầm cho rằng ông có số sát thê. Nhưng tại sao cả ba người vợ dều chết vì chứng truỵ tim. Chẳng lẽ ông Vĩnh Hảo dều thích lấy những bà bệnh tim như cô nàng Hàn Ni của nữ sĩ Quỳnh Dao cả hay sao. Dấy là một câu hỏi không có lời giải dáp.
Vụ án Vĩnh Hảo phai nhạt dần theo thời gian. Giữa lúc người Sài Gòn gần như dã quên lãnh câu chuyện dó, thì dùng một cái, tờ Tiếng Chuông may mắn vớ dược nguồn tin nhà triệu phú lấy vợ lần thứ tư, lập tức cho mẫu tin dó lên trang nhất, làm khuấy dộng dư luận quần chúng lần nữa.
Tờ Tiếng Chuông thường ngày chỉ in 200,000 tờ, nhưng với tin sốt dẽo này, ông chủ nhiệm cho in thêm 100,000 tờ nữa mà vẫn bán vèo một cái là hết. Những tờ Buổi Sáng, Tiếng Dân, Tiếng Dội dâu có chịu thua, các phóng viên dược lệnh phải diều tra thân thế của bà phu nhân thứ tư, và dĩ nhiên xào nấu vẽ rắn thêm chân cho ly kỳ dể câu dộc giả. Di xa hơn nữa, nhiều phóng viên còn dưa ra lời tiên doán, xem lần này bà tư có dột ngột từ trần như những bà trước hay không.
Ngôi biệt thự của ông Vĩnh Hảo toạ lạc tại vùng Ngã Tư Bảy Hiền gần bên khu dất thánh tây. Hồi dó người ta thường gọi những nghĩa trang của người Pháp với cái tên như thế, chắc là vì những cây thập tự gía cắm trên dầu những ngôi mộ xây bằng xi măng theo kiểu Gotic trông thật trang nghiêm và dầy nét thiêng liêng kỳ bí.
Nghĩa trang dược bao quanh bằng một hàng rào sắt cao phải gần ba thước dể phòng người dột nhập vào. Hai cánh cửa sắt lớn bao giờ cũng dóng im ỉm vì hiếm khi có người vào thăm.
Khu dất thánh rộng phải mấy chục mẫu dất, hàng trăm ngôi mộ nằm im lìm, thấp thoáng giữa những cây cổ thụ mọc rải rác khắp nơi. Nhiều tấm bia dá dã lâu không có người chăm sóc, thăm viếng, ngã xiêu ngã vẹo lẩn trong những bụi cỏ um tùm.
Có những cây sao già cao dến mười mấy thước, hàng năm vào dộ cuốu hè dầu thu, những hột sao nhỏ bằng dầu dũa dược bọc trong một cái vỏ có hai cái cánh như cánh chuồn chuồn rời cành bay xuống lả tả, trông ngoạn mục giống như những cái chong chóng.
Một con dường nhỏ trải dá sỏi từ cổng di vào trong, nó tẻ ra làm nhiều nhánh và mất hút vào chốn sâu thẳm tận cùng của nghĩa dịa, hai bên dầy lùm bụi rậm rạp. Ở chỗ ngã ba con dường, người Pháp dặt một cái bệ dá cao khoảng một thước, bên trên dúc tượng thiên thần Gabriel có dôi cánh sau lưng, tay cầm gươm dè lên gáy con quỷ Satan dang quì cúi gằm dầu.
Tượng thánh Gabriel dã dẹp và sinh dộng lắm rồi, nhưng tượng của Satan càng sắc sảo hơn. Không biết rằng niềm ngẫu hứng nào mà người diêu khắc gia dã gắn vào dược dôi mắt của con chúa quỷ cái nhìn trừng trừng dầy thứ ánh lửa của huỷ diệt. Dôi mắt long lên dữ tợn, mà những người từng vào thăm mộ không mấy ai dám dứng nhìn lâu vào.
Chỉ trong một khoảng khắc ngắn ngủi, người ta có cảm giác rằng dôi mắt dó dang chuyển dộng, nó phóng ra những tia thôi miên ma quái, trong dầu của người ngắm nó rền rền một tiếng vọng kinh dị như từ tận dáy dịa ngục. Hãy theo ta....hãy theo ta.....Cái miệng của con quỷ há to dầy vẻ dau khổ vì dang chịu sự trừng phạt của thượng dế từ sức mạnh lưỡi gươm của thiên thần Gabriel.
Nhưng hai bàn tay dầy móng vuốt của nó chóng xuống mặt bệ trong tư thế dầy dọa nạt. Người Pháp lúc lập nên cái nghĩa dịa này không hiểu tại sao lại cho dúc tượng quỷ Satan làm gì, nó làm cho hoàn cảnh nghĩa trang trông có vẻ nặng nề ma quái hơn là thánh thiêng.
Khu Ngã Tư Bảy Hiền ở ngoại ô Sài Gòn còn hoang vu lắm, lau sậy, ao vũng còn nhiều. Mỗi buổi chiều chạng vạng, lúc không gian dã mờ tối, nghĩa trang thánh Tây chìm trong cõi âm u trầm mặc, không ai dám lảng vảng dến hay di qua. Lũ trẻ con thì càng tránh xa hơn cả.
Trong trí óc non nớt dầy dẫy những sự tưởng tượng, chúng hình dung những cái xác chết khô trỗi dậy từ dưới dáy mộ bay di tìm con người sống dể hút máu tươi, mà chúng một dôi lần có xem những cuốn phim Dracula hay do người lớn di xem kể lại.
Những tưởng ở giữa một khung cảnh hoang vắng dìu hiu dầy những linh ảnh ma quái như vậy, không có sự hiện hữu của con người, nhưng thật ra thì có một ông gài gác nghĩa trang sống trong một căn nhà nhỏ gần cổng ra vào.
Người Pháp rút về nước dã lâu, dâu có còn ai trả lương cho ông gác dất thánh nữa. Nhưng có lẽ cư ngụ dã lâu, quen nơi quen chốn, ông già không phàn nàn gì. Mãi về sau này, thành phố Sài Gòn cho phép cả người Việt chôn cất thân nhân trong khu dất thánh Tây này, ông già dược chuyển làm nhân viên thành phố ăn lương. Ông là ứng viên duy nhất, vì chẳng ai dám tranh với ông dể vào ở cái nơi âm u dó.Bọn trẻ con quanh khu dất thánh nhìn ông bằng cặp mắt nửa nễ phục nửa ghê sợ. Nễ phục vì ông dám ở giữa nghĩa trang một mình năm này qua năm khác, mà có cho vàng cũng không ai dám vào trong dó dù chỉ một dêm.
Ghê sợ vì cái hình dáng cục mịch, cái dầu hói lơ thơ tóc và cái mũi khoằn khoằn trông thẳng khác gã người hầu của Dracula bao nhiêu. Mỗi buổi sáng ôm cặp di học ngang qua, mỗi buổi chiều tan học di về, bọn trẻ con thường thấy ông già ngồi cặm cụi dan rỗ thúng, dôi mắt dục ngầu dầy những sợi chỉ máu của ông nhếch lên, chẳng biết là cười hay là doạ. Bọn học trò co giò bỏ chạy. Vừa chạy vừa la. Ông già nhìn theo lắc dầu ngơ ngác.
Người ta tự hỏi tại sao một con người giàu có như ông Vĩnh Hảo mà lại chọn ra ở nơi vắng vẻ như vậy.
Thiếu gì ngôi biệt thự dẹp dẽ trong thành phố dể cư ngụ và vui hưởng những thú vui vật chất của một ông triệu phú.
Có một lý do có thể trả lời dược nghi vấn nầy. Ông Vĩnh Hảo kinh doanh ngành nhà dất và thầu khoán xây cất, có thể ông tiên doán dược tương lai phát triễn của khu Bảy Hiền, nên ông dã mua hàng trăm mẫu dất ở dây và cho cất một ngôi biệt thự dể thu hút người mua dất và cất nhà.
Dẫu biết rằng trong ngôi biệt thự từng dã có ba người chết, nhưng trước sức quyến rũ qúa mạnh của vật chất, những cô gái hay những người dàn bà khó có thể cưỡng lại dược cái gàiu có và danh vọng của ông Vĩnh Hảo, nên ông dã dễ dàng tìm dược bà vợ thứ tu cho mình.
Cuộc hôn nhân này dường như do dịnh mệnh dun rủi hay sao, mà có một ngày người tài xế lái xe chở ông di công việc dã tông phải một cô gái dang lơ dểnh băng qua dường. Ông Vĩnh Hảo nhảy xuống xe cùng anh tài xế vực cô gái lên chở dến bệnh viện. Dù không phải lỗi của mình, ông Vĩnh Hảo tự thấy có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc cho cô gái.
Hàng ngày dù bận công việc dến mấy, ông vẫn dành thì giờ vào thăm viếng tặng hoa cho nàng. Cô gái là một nữ sinh viên Văn khoa năm thứ tu8 ở dộ tuổi không còn trẻ, mà chưa phải dã qúa thời, chỉ khoảng trên dưới hai mươi lăm.
Ông Vĩnh Hảo mới trên bốn mươi. Sự cách biệt tuổi tác không ngăm cấm dược nhịp dập của tình yêu, nên khi nàng xuất viện thì ông Vĩnh Hảo dã quì xuống dâng cho nàng một chiếc nhẫn hột xoàn lóng lánh, thiết tha mời nàng về làm bà chủ cái tài sản khổng lồ của ông.
Theo thông lệ, ông Vĩnh Hảo dắt người vợ mới cưới của mình vào nghĩa trang dặt những bó hoa tưởng niệm lên bia mộ của ba bà vợ trước, dể trình diện người vợ trẻ thứ tư, mà chắc là cũng dể cầu xin sự thông cảm từ linh hồn của các bà, hãy cho phép ông dược di bước nữa.
Ông Vĩnh Hảo dã tặng cho ông già gác nghĩa trang một số tiền khá hậu dể nhờ thăm sóc giùm mồ mã của những người vợ qúa cố dược tươm tất sạch sẽ. Ông già cảm kích lắm. Ba nấm mộ nằm phía sau khu dất thánh Tây cùng với nhiều ngôi mộ người Việt khác nên ông Vĩnh Hảo phải dìu vợ di xuyên qua khu rừng thưa mờ mờ ánh sáng.
Lúc giữa trưa mà nghĩa trang sao im ắng tịch mịch qúa, cả dến tiếng chim hót cũng không. Chỉ có năm ba con quạ den dậu chót vót trên những ngọn cây sao. Thỉnh thoảng chúng cất tiếng kêu khàn khàn dượm dầy vẽ thê lương. Bà Vĩnh Hảo rùng mình ôm chặt lấy cánh tay chồng, làm ông Vĩnh Hảo dâm ra hối hận. Lẽ ra ông không nên dem bà vào những chỗ buồn thảm lành lạnh mùi tử khí như thế này.
Hiếm có một người dàn ông nào phải mang mễn trong lòng nỗi dau dến ba lần mất vợ như ông Vĩnh Hảo.
Cũng hiếm có một người chồng nào phải ngậm ngùi dặt nhiều bó hoa tưởng niệm trước những nấm mộ của những người vợ qúa cố như ông.
Cùng với bà vợ thứ tư, nhà triệu phú u sầu dặt ba bó hoa huệ trắng tựa vào những tấm mộ bia. Ba ngôi mộ cao to xây bằng xi măng nằm song song nhau trên một cái gò dất, bên ngoài dược phủ lên bằng dá cẩm thạch trắng, những hàng chữ khắc dược phủ kim nhũ dắt tiền vàng lóng lánh.
Nhưng dặc biệt hơn cả, hình chân dung của những bà vợ quá cố của ông Vĩnh Hảo rọi lớn và dược cẩn sâu vào tấm bia, dược bảo vệ bằng một tấm kính thuỷ tinh dầy hình bầu dục ánh màu xanh biếc.
Hình vẫn còn mới, nụ cười của những người dàn bà rất tươi tắn, vì dã dược chụp trong thời kỳ hạnh phúc, nên khi ngồi bên mộ và nhìn vào tấm bia cẩm thạch, bà vợ thứ tư không bị cái cảm giác nặng nề cúa sự chết và cái không khí huyễn hoặc thâm u của nghĩa trang dè nặng lên tâm tưởng của bà.
Bà chăm chú nhìn vào dôi mắt hiền từ cúa bà vợ thứ nhất, khuôn mặt phúc hậu của bà thứ hai và dôi môi nhỏ hình trái tim của bà thứ ba. Một dám mây lớn màu xám che khuất chiếc dĩa mặt trời dang toả nhiệt chói chang, làm cho khoảng không gian bao phủ nghĩa trang bị tối sầm lại.
Mấy con qụa trên ngọn cây xoè rộng dôi cánh den cất tiếng kêu oang oác tạo thành chuỗi âm thanh ngân nga kỳ dị trong buổi trưa hè tịch mịch. Khuôn mặt nhìn nghiêng của bà thứ ba bỗng xoay lại nhìn bà Vĩnh Hảo, dôi môi của nàng chợt há to trong một trạng thái kinh hoàng, như dang kêu thét cầu cứu.
Bà Vĩnh Hảo hoảng hốt lùi lại tựa vào tấm bia của bà hai, khuôn mặt vô tình áp sát vào cái chân dung của người chết, thì trời ơi, bà trông thấy dôi mắt trên tấm bia hấp háy, con ngươi mở to hết mức, như dang trông thấy một hình ảnh kinh khiếp nào dó. Bà Vĩnh Hảo kêu rú lên:
--Anh ơi...
Ông Vĩnh Hảo dang trầm mặc trước tấm bia của người vợ thứ nhất, ông giật mình bước sang nắm lấy tay vợ hỏi dồn:
--Chuyện gì vậy em ?
Dám mây dã trôi xa, không gian sáng hừng lên, bà Vĩnh Hảo dụi mắt nhìn lại những khuôn mặt trên bia dá. Chẳng có gì cả. Có lẽ bà dã trải qua một cơn ảo giác không có thật. Bà Vĩnh Hảo run giọng:
--Không....không có gì...có lẽ em hoa mắt...
--Em thấy gì ?
--Không...không, chẳng có gì cả.
Lúc ra về, bà Vĩnh Hảo dã dứng bên cái bệ ngắm nghía tác phẫm diêu khắc "Thiên Thần Và Ác Quỷ" Thánh Gabriel nhìn nàng bằng dôi mắt từ ái, một tia ánh sáng huyền nhiệm lóe lên từ dó. Nhưng khi dời mắt sang quỷ Satan, thì dột nhiên bà Vĩnh Hảo có cái cảm tưởng rờn rợn, rằng dường như bà thoáng bắt gặp dôi mắt của nó mới vừa hấp háy.
Từ ánh mắt của nó lấp loáng một thứ sáng màu xanh kỳ dị, có lẽ là do phản ảnh từ chất dồng thau, tia nhìn của con quỷ xoáy sâu vào mắt người thiếu phụ. Bà Vĩnh Hảo giật mình lùi lại níu chặt cánh tay chồng hơn. Ông Vĩnh Hảo ôm lấy vợ lo lắng:
--Gì vậy em ?
Bà Vĩnh Hảo tái mặt lắp bắp dưa tay lên:
--Dôi mắt...dôi mắt của..nó nhìn..em...
Nhà triệu phú nhìn theo ngón tay cúa vợ dang hướng vào khuôn mặt nhăn nhó dau khổ của Satan, nhưng ông nào có thấy gì dâu. Nó chỉ là một bức tượng dồng vô tri vô giác và vô hại. Ông Vĩnh Hảo nhún vai:
--Có gì dâu, chắc là em bị chói nắng dó..Dể anh dưa em về.
Bà Vĩnh Hảo dưa tay lên vò hai bên thái dương cau mài:
--Em nhức dầu quá...
Tình thực thì trong dầu bà dang rền rền một chuỗi âm thanh kỳ bí, mơ hồ như vọng từ một dáy vực sâu lạnh lẽo nào dó.
--Hãy theo ta...Hãy theo ta...
Buổi cơm chiều hôm ấy, vẫn còn bần thần vì ánh mắt ma quái của bức tượng dồng, bà Vĩnh Hảo dã bỏ ăn và nằm lì trong phòng. Trong một ngày mà bà phải trải qua hai cơn ảo giác ghê rợn như vậy, thần kinh bị xáo dộng dữ dội, bà Vĩnh Hảo có cảm giác hàng ngàn cái vòng nước dang liên miên bủa vào não bộ của mình, giống như mặt hồ thu bị khuấy dộng vì những viên dá.
Những dĩa thức ăn của chú Năm Robert, một người dầu bếp mẹ Việt cha Pháp, nấu rất ngon nằm câm nín trên chiếc bàn gỗ bóng loáng, vì ông Vĩnh Hảo chỉ gắp qua loa vài miếng, rồi ông cũng theo vào phòng dể chăm sóc vợ.
Chú năm Robert cùng với anh Nên tài xế và chị Bông giúp việc dành phải dọn hết xuống nhà dưới ăn với nhau.
Ông Vĩnh Hảo âu lo ngồi một bên người vợ dang nằm úp mắt xuống chiếc gối, dưa tay vuốt nhẹ mái tóc óng ả thơm ngát của nàng nhẹ giọng:
--Liễu em, hết nhức dầu chưa ?
Liễu xoay người mở mắt nhìn lên cảm dộng:
--Dỡ nhiều lắm rồi...Có lẽ em bị cảm anh à.
Ông Vĩnh Hảo cúi xuống hôn lên trán vợ:
--Em nằm nghỉ dể anh kêu chú Năm nấu chút cháo nóng cho em nghe ?
Liễu nắm tay chồng:
--Thôi anh,em chỉ muốn nằm nghỉ, chắc một lát là hết mà.
Dến giờ ngủ, ông Vĩnh Hảo lấy một cái gối ôm dài chận giữa hai người, trong lúc Liễu nhìn lạ lùng:
--Anh làm gì vậy ?
Ông cười cười:
--Em bệnh, anh không muốn quấy rầy em !
Liễu không thể không bật cười khúc khích, dù nàng vẫn còn nhức dầu lắm:
--Nhưng nếu em muốn anh quấy rầy em thì sao ?
Hai cánh tay tròn lẳn mát rượi của Liễu vòng lấy gáy của chồng kéo ghịt xuống, dôi môi nhỏ áp chặt vào miệng ông. Ông Vĩnh Hảo rủn người dê mê. Ôi, dôi môi của nàng thơm ngọt quá chừng. Chiếc lưỡi mêm mại của nàng quấn lấy lưỡi ông xoắn xít như một con rắn quấn mồi.
Liễu dá tung chiếc gối ôm văng khỏi chiếc giường nệm, dôi môi nàng thì thầm bên tai chồng:
--Anh quấy rầy...em di...anh...
Hơi thở thơm như hương hoa của Liễu phả nhẹ vào mũi chồng:
--Em yêu anh !
Dến dây thì ông Vĩnh Hảo hoàn toàn chịu thua. Cái thân thể mơn mởn của Liễu áp sát vào, ông có thể cảm nhận dược hơi ấm nồng nàn từ khuôn ngực săn chắc của nàng truyền sang làn da của mình.
Ông Vĩnh Hảo run người trong một trạng thái khoái cảm lâng lâng, ông nhìn mê dắm vào cái thân thể trắng ngà của vợ mờ ảo ẩn hiện sau lớp áo ngủ mỏng dính bằng dôi mắt háo hức. Nhưng Liễu dã hóm hĩnh mĩm cười và dưa tay bấm cái nút cảu chiếc dèn ngủ trên chiếc bàn nhỏ dầu giường.
Trong bóng tối, những bàn tay cuống quít sờ soạng dan vào nhau, dể dến một lúc ông Vĩnh Hảo thấy mình dang ôm chặt trong vòng tay một tấm thân nóng như lửa nhưng trơn như tuột như một con bạch tuộc, với những chiếc vòi hối hả uốn éo cuốn nhanh người ông....Nửa khuya, bà Vĩnh Hảo chợt thức giấc. Cơn nhức dầu buổi chiều dã tan biến mất. Bây giờ thì Liễu thấy dói, nàng thèm ăn một chút gì dó cho dỡ xót ruột, vì cái dạ dày cúa nàng dang sôi lục ục.
Dưới ánh sáng mờ của vầng trăng hắt vào khung kính cửa sổ, Liễu tìm nhặt chiếc áo ngủ khoác lên. Sợ chồng giật mình, Liễu nhẹ nhàng trèo xuống giường rón rén mở cửa phòng bước ra ngoài.
Cái hành lang dẫn xuống nhà bếp tối om, dài hun hút. Liễu bỗng thấy ớn lạnh, nàng tìm cái công tắc dèn. Ánh dèn vàng sáng bừng lên làm cho nàng thấy yên tâm. Căn biệt thự rộng mênh mông lúc giữa khuya im ắng không một tiếng dộng, chỉ có tiếng của bọn dun dế rỉ rả ngoài cõi dêm.
Từ phòng khách vọng vào tiếng gõ trầm buồn của chiếc lắc dồng hồ. Dã một giờ khuya rồi. Liễu ngần ngừ, nửa muốn di tìm cái ăn, nửa muốn trở vào. Nhưng dã gần một ngày nhịn dói, nàng không thể không ăn. Liễu chặc lưỡi. Ăn cái dã, rồi tính sau.
Khi nàng di dến gần nhà bếp, thì dột nhiên cánh cửa sổ dối diện với cái nghĩa trang dánh sầm một cái cực mạnh làm Liễu tái mặt ôm ngực lùi lại nhìn trừng trừng về hướng khung cửa. Trong bóng tối mờ, nàng trông thấy hai cánh cửa dang từ từ mở rộng, như có một người nào dó dã dùng tay dẩy ra, nhưng chẳng thấy ai cả. Rồi dột ngột hai cánh cửa dập ầm ầm vào khung gỗ, như người ta khép mạnh nó trong một cơn giận dữ.
Trái tim của Liễu dập thình thịch trong ***g ngực.Dôi mắt màu xanh biếc của bức tượng Satan ngoài nghĩa dịa chợt hiện lên trong ý nghĩ của Liễu làm nàng xoay người dịnh bỏ chạy về phòng, nhưng một cơn gió lạnh từ khung cửa ùa vào thổi tung cái vạt áo ngủ của Liễu, tiếp theo với tiếng dập dánh ầm của hai cánh cửa sổ. Hóa ra chỉ là cơn gió từ khu dất thánh Tây dã dánh vào kính cửa sổ dã tạo nên thành hiện tượng dó. Có lẽ chị Bông hay chú Robert dã quên cài chốt rồi.
Liễu bật công tắc dèn nhà bếp lên. Ánh sáng trắng của chiếc dèn néon dài dã xua tan nỗi sợ hãy xốn xang của Liễu, nàng khép hai cánh cửa kính và cẩn thận cài chốt. Bên kia dường, có tiếng chó tru dêm. Liễu áp sát mặt vào tấm kính nhìn sang. Dưới ánh trăng, bóng một chó hoang nổi den lên trên một ngôi cổ mộ dang ngước cái mõm dài của nó tru một hơi dài.
Cái thiên tính tru trăng của loài chó rừng vẫn còn tiềm dọng trong từng sớ thịt của loài chó hoang, nên ở giữa dêm khuya trong dám cây cổ thụ, cái thiên tính dó dã trỗi dậy. Tiếng tru của con chó áo não, rờn rợn như tiếng kêu hú của những âm hồn từ dưới dáy mộ sâu.
Liễu rùng mình không dám nhìn nữa, nàng quay người mở tủ lạnh chọn một dĩa dồ nguội ngồi quya lưng về cửa sổ ăn nhanh. Dẫu biết rằng dằng sau nhà bếp là dãy nhà của anh Nên tài xế và chú Năm Robert, chị Bông thì cư trú trong cái phòng sát bên cánh cửa dẫn ra cái vườn nhỏ chỉ cách nhà bếp một cái nhà kho, nhưng giữa dêm trường tịch mịch, thỉnh thoảng con chó gớm ghiếc tru lên một tràng dài, Liễu thấy lạnh cả người và không khỏi tưởng tượng những chuyện ghê rợn từ khoảng bóng tối den dặc dó.
Người ta nói rằng, một khi con chó nó tru, thì chắc nó dã trông thấy...ma...Những âm hồn nửa dêm trồi lên khỏi mộ kéo nhau di lang thang từng doàn, mà chỉ có loài chó mèo hay cú dêm mới nhìn thấy.
Liễu cố ăn cho xong dế có thể trở về nằm trong dôi cánh tay bảo bọc của chồng. Dột nhiên, Liễu có cái cảm giác lành lạnh trên gáy, linh tính bảo cho nàng từ phía sau. Cái cảm giác dó càng lúc càng dậy lên mãnh liệt cùng với cơn sợ hãi dang rùng rùng kéo trở về. Liễu tê cứng người vì sợ. Nàng biết chắc, trời ơi, có một người dang chằm chằm nhìn nàng từ phía.....Liễu run bắn người, tay chân lạnh cóng, rờn rợn, nàng từ từ dứng lên...rồi chầm chậm quay người lại....Con chó trong nghĩa trang bỗng tru lên một tiếng dài kinh dị. Cùng lúc, Liễu trông thấy ba khuôn mặt den nhẻm dang áp sát vào khung kính cửa sổ từ phía ngoài nhìn vào. Liễu kinh hoàng ôm cứng cái dĩa dồ nguội trong lòng. Cũng may là Liễu dang dứng giữa vùng ánh sáng, chứ nếu ở trng bóng tối, thì chắc nàng dã dứng tim ngã ra chết rồi.
Ba cái mặt con người nhe hàm răng trắng nhỡn cười với vẽ hiền lành, một người dưa tay lên gõ cành cạch vào cánh cửa ra dấu muốn nói chuyện. Liễu hoàn hồn thở phào một cái thật dài. Nàng cứ tưởng họ là những âm hồn từ bên phía nghĩa trang sang dây hù nhát mình, hoá ra không phải. Có lẽ là mấy người hàng xóm ở gần dâu dây. Nàng biết có mấy cái xóm dệt của người Bắc di cư vào sinh sống trong khu vựa này. Dến bây giờ thì nàng dã nhận rõ, chỉ là một người dàn ông, một dàn bà và một thằng nhỏ chừng mười tuổi. Có lẽ là một gia dình. Liễu dặt cái dĩa xuống bàn và di dến mở cánh cửa sổ ra hỏi:
- Ai dó ?
Người dàn bà mặc chiếc áo bà ba nâu, tóc búi củ hành chìa tay rên rỉ:
- Dạ bà chủ cho xin chút thức ăn, dói qúa bà chủ ơi....
Liễu ngạc nhiên:
- Chú thiếm ở dâu vậy ?
Người dàn ông chấp tay:
- Dạ thưa bà chủ, chúng tôi cũng ở gần dây thôi, nghèo dói qúa bà chủ, cực chẳng dã mới di xin ăn !
Là người có từ tâm, Liễu thấy mủi lòng ngay, nàng sốt sắng gật dầu:
- Dược, dược, chú thiếm chờ một chút nha.
Liễu tìm thấy một cái gà mên, nàng trút hết thức ăn trong tủ lạnh trao cho người dàn bà, ân cần:
- Chú thiếm nhận dỡ cái này, khuya quá chỉ còn bấy nhiêu thôi.
Người dàn bà cúi dầu cảm dộng nhận cái gà mên:
- Bà chủ tử tế qúa, chúng tôi dội ơn....
- Không có chi, chú thiếm cứ giữ lấy cái gà mên mà xài. À...hay là chú thiếm chờ ở dây tôi vào lấy cho thiếm ít tiền.
- Dạ, khỏi bà chủ, chúng tôi không cần tiền !
Thằng nhỏ ngước dôi mắt ngây thơ nhìn Liễu cười.
Liễu trở vào cái tủ chứa dồ khô, nàng tìm thấy một hộp bánh biscuit còn nguyên chưa lột giấy kiếng, nàng thò tay ra ngoài cửa xoa dầu thằng nhỏ và dưa hộp bánh cho nó:
- Em ngoan, chị cho em cái hộp bánh nè.
Thằng nhỏ khoanh tay lễ phép:
- Dạ con cám ơn cô. Cô tốt quá, mấy bà chủ hồi trước không dược như....
Người dàn bà nạt ngang:
- Tí, không dược nói bậy...
Bà quay sang Liễu cười xuề xoà:
- Cám ơn bà chủ nhiều lắm, thôi bà chủ vào nghỉ kẻo khuya, xin cầu Trời Phật phò hộ bà chủ.
Dôi vợ chồng chấp tay cúi dầu chào liễu, người dàn bà nắm tay thằng nhỏ dẫn di. Thằng Tí xem chừng mến Liễu lắm, di dược chục bước, nó quay lại nhìn Liễu vẻ tha thiết. Liễu bần thần dứng trông theo ba cái bóng den khuất dần trong màn dêm.
Dến khi dã nằm êm ấm bên cạnh chồng rồi mà Liễu vẫn chưa nghĩ ra dược những diều lạ thường. Tại sao nhóm người ăn xin dó tìm dến giữa khuya, mà không phải là giữa ban ngày. Tại sao họ xuất hiện ở cửa sau, mà không phải là ở cửa trước. Và lại dúng lúc nàng dang ăn. Mí mắt nặng chình chịch, Liễu xuay người quàng tay lên ngực chồng và chìm rất nhanh vào giấc ngủ. Nàng cũng dã quên không tự hỏi, cái sân vườn phía sau dược xây kín bằng vòng tường cao và không có cửa ra, vậy thì ba cái con người dó họ di dâu.
Trưa hôm sau, nhân lúc cùng ông Vĩnh Hảo nắm tay di dạo dưới những bóng râm trong vườn, Liễu sực nhớ chuyện ba người ăn xin dêm qua, nàng kéo chồng di lại cái cửa sổ. Liễu cúi người nhìn xuống chân tường. Ủa lạ chưa kìa, sao không thấy dấu chân nào hết. Dất không cứng lắm, nếu họ dứng ở dây thì phải có dấu chứ. Liễu ngước mặt nhìn lên khung cửa sổ, nàng dưa thẳng cánh tay mới với tới. Dột nhiên Liễu rùng mình ôm lấy cánh tay chồng lẩm bẩm.
- Cao qúa, cao qúa....làm sao có thể như thế dược nhỉ ?
Ông Vĩnh Hảo thấy thái dộ lạ lùng của vợ, ông ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì vậy em ?
Liễu lắc dầu ngơ ngác:
- Lạ thật !
Liễu dẩy ông Vĩnh Hảo dứng ngay dưới khung cửa hấp tấp bảo:
- Anh dứng ở dây chờ em một chút nha....
Trong lúc ông Vĩnh Hảo lắc dầu chẳng hiểu gì cả thì Liễu dã chạy vào trong nhà bếp nhìn xuống qua khung cửa sổ. Ông Vĩnh Hảo cười khì:
- Em dịnh chơi trò trốn núp với anh hả ?
- Anh nhảy lên thật cao cho em xem....
Ông Vĩnh Hảo ngỡ là vợ muốn ông làm trò vui, ông nhún mình lên nhìn vợ cười. Liễu vẫn lắc dầu:
- Anh nhảy cao chút nữa dược không ?
Ông Vĩnh Hảo cố sức nhảy thêm mấy cái rồi dưa hai tay lên chịu thua:
- Thôi anh dầu hàng, anh già rồi, hì hì....
Liễu bước ra ngoài, trong lòng bần thần dậy lên nhiều câu hỏi. Nếu những người ăn xin dó dứng chạm mắt vào khung kính, thì ít nhất họ phải bắt ghế dứng, chân ghế phải lún sâu vào dất chứ. Dù họ có nhảy cao dến thế nào, thì cũng vẫn không thể ngang tầm với cánh cửa như dêm qua dược.
Dến buổi chiều, trong lúc ông Vĩnh Hảo có công việc di vào Sài Gòn, Liễu xuống nhà dưới tìm chị Bông. Bông dang hứng nước vào cái thùng sô rửa rau tiếp chú Robert. Thấy bà chủ, chú Robert và chị Bông dứng dậy chào:
- Thưa bà chủ.
Liễu gật dầu, nàng kéo chị Bông ra một chỗ hỏi:
- Dêm hôm qua chị có thấy ai vào sân nhà mình không ?
Chị Bông ngơ ngác lắc dầu:
- Dạ...không có ai. Cửa rào lúc nào cũng khóa, không ai vào dược da6u.
Liễu cắn môi:
- Lạ thật !
- Dạ, bà chủ nói gì !
- Chị, chú Robert với anh Nên có bà con nào tới thăm không ?
- Dạ không.
- Thôi dược rồi, chị làm việc tiếp di.
Khuya dêm dó, trong lúc ông Vĩnh Hảo ngủ say, Liễu lại rón rén di xuống nhà bếp. Mặc dù trong lòng rờn rợn, nhưng Liễu muốn có câu giải dáp cho những nghi vấn lạ lùng của nàng. Liễu bắt dầu diễn lại tấn tuồng ăn uống.
Liễu lắng nghe tiếng tru dài của con chó trong nghĩa trang. Nó dã tru thì chắc là nó dã thấy những linh ảnh ma quái nào dó. Có lẽ những âm hồn dưới dáy mộ dã trỗi dậy rồi. Dột nhiên cái cảm giác bị nhìn ùn ùn dậy lên từ sau gáy, sống lưng Liễu lạnh buốt, rần rật. Chắc là "họ" dã dến. Lấy hết can dảm, Liễu dứng lên và từ từ xoay người lại nhìn về khung cửa sổ, dôi mắt hấp háy chờ dợi sẽ trông thấy dôi vợ chồng và thằng bé. Dù dã chuẩn bị tinh thần và biết chắc những người ăn xin rất hiền lành, nhưng khi trông thấy hai khuôn mặt hoàn toàn lạ áp mặt vào cửa kính nhìn nàng, Liễu vẫn giật mình thảnh thốt, chiếc dĩa trên tay nàng rơi xuống dất vỡ tan.Chị Bông dang quấn quít rên rỉ với anh tài xế Nên, nghe tiếng dộng chát chúa bên nhà bếp, chị hoảng hốt tròng áo quần vào chạy sang, trong lúc Nên phóng vù về căn phòng của mình. Chị Bông trông thấy bà chủ của mình tái mặt dứng sững người nhìn trừng trừng về hướng cửa sổ, chị kêu lên:
- Bà chủ, có chuyện gì vậy ?
Liễu lắp bắp:
- Có...có....người....lạ.....
Bông nhìn theo, nhưng chị chẳng thấy gì hết, chị hỏi dồn:
- Ai vậy bà chủ ?
Liễu lắc dầu:
- Tôi không biết.
Hai cái khuôn mặt dàn ông dã nhanh chóng biến mất sau tiếng bể vỡ của cái dĩa. Ông Vĩnh Hảo nghe ồn, ông mặc pyjama di xuống dưa mắt nhìn chị Bông hỏi:
- Chuyện gì vậy chị Bông ?
Chị Bông ấp úng:
- Dạ, bà chủ trông thấy có người lạ.....
Ông Vĩnh Hảo nắm tay vợ dịu vàng:
- Chuyện gì vậy em ?
Liễu bối rối chỉ vào cánh cửa sổ:
- Em mới vừa thấy có người dứng bên ngoài nhìn vào.
Ông Vĩnh Hảo lạ lùng bước tới mở toang hai cánh cửa thò dầu nhìn ra ngoài. Dưới ánh trăng mờ, cảnh vật chập chờn kỳ dị, nhưng ông chẳng thấy gì cả. Chị Bông trao cho ông chủ cây dèn pin, ông bật lên rọi vào khắp khu vườn sau bếp. Cũng chẳng có gì lạ hết. Trong lòng thầm cho là vợ mình dã tự tưởng tượng, thần hồn nhát thần tính, ông quàng tay ôm vợ dáng che chở và trấn an:
- Không có gì dâu em, thôi mình lên nghỉ di.
Liễu nằm co rúm trong lòng chồng, nàng thủ thỉ kể lại câu chuyện dôi vợ chồng và thằng bé xin ăn dêm qua, và hai người dàn ông lạ khác dến dêm nay. Ông Vĩnh Hảo nhíu mày suy nghĩ, trong lòng ông dậy lên một nỗi âu lo bứt rứt. Ngày mai ông phải dẫn vợ di khám bác sĩ tâm thần mới dược.
Bác sĩ cho toa mua thuốc an thần, Liễu ngủ yên dược mấy dêm, nhưng biết uống thuốc ngủ mãi sẽ gây ra hiện tượng "lờn thuốc", có hại hơn, nên nàng lén chồng không uống nữa. Liễu dã giả vờ ngủ say dể ông Vĩnh Hảo dược an lòng. Bác sĩ dã nói riêng với ông Vĩnh Hảo, rằng rất có thể bà Vĩnh Hảo mắc chứng hoang tưởng. Những người bị bệnh này cho là họ dã nhìn thấy những người, thú hay cảnh vật kỳ dị, thậm chí ma quỷ nữa, trong khi người lành mạnh chẳng hề nhìn thấy như vậy bao giờ.
Nhưng cho dù người thân hay bác sĩ trấn an và giải thích dến như thế nào, người mắc chứng hoang tưởng vẫn khăng khăng là mình dúng. Thật ra Liễu có bệnh gì dâu. Nàng dâu có tưởng tượng, chính nàng dã trông thấy, dã trò chuyện với "họ". Trong ý nghĩ của Liễu, nàng vẫn còn muốn thử lại lần nữa, nhưng thấy sờ sợ, Liễu lại không dám. Thôi thì dừng có xuống bếp lúc nửa dêm và hãy dể cho những con người dó chìm vào quên lãng là tốt hơn cả.
Ông Vĩnh Hảo rất thương yêu vợ, thấy vợ mình mãi băn khoăn những chuyện vớ vẫn không dâu, ông quyết dịnh giao công việc cho một người thân cận, rồi dẫn vợ di du lịch một vòng châu Âu.
Ở châu Âu, bà Vĩnh Hảo trông hồng hào xinh dẹp hẳn ra. Khí hậu miền ôn dới có lẽ dã kính thích từng tế bào trong cái thân thể tràn trề nhựa sống cúa Liễu, cùng với tình yêu nồng nàn của chồng dã khiến cho nàng mơn mởn, phơi phới như một dóa hoa hồng buổi sớm. Một hôm Liễu thẹn thùng kéo chồng vào phòng riêng, nàng ngồi vào lòng ông cuộn tròn như một con mèo nhỏ, hai cánh tay vòng quanh cổ chồng âu yếm:
- Anh ơi, làm một ông nhà giàu thừa mứa vật chất, anh còn ao ước một diều gì nữa không ?
Ông Vĩnh Hảo hôn lên má vợ:
- Thượng dế dã ban qúa nhiều ân sủng cho anh. Dịa vị, danh vọng, xe hơi, nhà lầu, và vợ dẹp....anh không còn dám ao ước gì nữa.
Liễu nũng nịu:
- Có mà, anh ráng nhớ di !
Dôi mắt lóng lánh của nàng nhìn chồng khuyết khích. Ông Vĩnh Hảo gãi dầu suy nghĩ:
- Thật mà, dâu còn gì dể ao ước nữa.
- Thật không ?
Ông Vĩnh Hảo chu môi:
- À, à, coi chừng cái cô Liễu này dố mẹo tôi dây....
Bỗng một ý nghĩ lóe lên trong dầu ông, giống như một tia chớp cắt ngang bầu trời, ông lẩm bẩm:
- Người ta nói vợ dẹp và....c...
Ông Vĩnh Hảo reo lên:
- Em nói dúng, anh còn một diều ước cuối cùng nữa.
Liễu hóm hĩnh nhìn chồng:
- Diều ước thì phải có bà tiên với chiếc dũa thần ban cho.
Ông Vĩnh Hảo mường tượng dã doán ra dược dến năm mươi phần trăm vợ muốn dẫn dắt mình di dến dâu, ông dặt tay lên bụng vợ:
- Vậy thì bà tiên ban cho anh cái ân huệ dó di, Liễu nép dầu vào ngực chồng thủ thỉ:
- Bà tiên cho anh một dứa....con, anh có chịu không ?
Ông Vĩnh Hảo thét lên diên cuồng và ghì chặt vợ vào lòng:
- Anh nhận, anh nhận....Em dã mang thai rồi phải không ?
Năm ngón tay của Liễu bấu vào ngực chồng thay cho câu trả lời.
Gần dến ngày sinh, Liễu thấy mỏi mệt lắm. Không muốn quấy rầy vợ, ông Vĩnh Hảo cho kê một cái giường nhỏ sát vách phòng dể ngủ riêng, nhưng ông vẫn có thể tỉnh giấc khi có chuyện cần. Ông mướn hẳn một cô hộ sinh nhiều kinh nghiệm cư trú luôn ở biệt thự trong hai tháng cuối cùng dể theo dõi sức khoẻ của vợ. Giữa mùa hè, tuy Sài Gòn có nhiều cơn mưa lớn, nhưng cái nóng nhiệt dới vẫn hừng hực phủ trùm lên thành phố, ông Vĩnh Hảo muốn gắn máy lạnh nhưng Liễu không thích tiếng sè sè của chiếc máy, nó làm nàng khó ngủ.
Mỗi dêm ông vẫn thường mở rộng cửa sổ dể dón gió mát của dêm lùa vào. Không hiểu sao dêm nay Liễu thấy trăn trở trằn trọc mãi không ngủ dược, cứ mơ mơ màng màng. Bụng nàng ngâm ngẩm dau, có lẽ dã gần dến lúc rồi chăng. Cô y tá dề nghị ngày mai dưa nàng vào nằm trước trong bệnh viện dể ngừa mọi tai biến ngoài ý muốn. Dứa trẻ cứ dạp liên hồi trong bụng Liễu, nàng dau nhưng sung sướng lắm. Con cứ quấy phá mẹ mãi nhé. Hư lắm. Liễu âu yếm dặt tay lên bụng, trái tim tràn ngập tình thương yêu.
Dột nhiên một cơn gió lạnh thốc vào từ khung cửa sổ thổi tung một góc tấm mền mỏng dắp trên người Liễu. Thật lạ, giữa mùa hè mà cơn gió lại lạnh buốt như là gió bấc mùa dông. Liễu tìm cái công tắc dèn dể bật lên. Bỗng từ phía cái nghĩa trang mà Liễu dã quên mất từ một năm nay, trời ơi, có tiếng chó tru vọng vào rền rền như tiếng vọng từ dưới dáy dịa ngục. Con chó kêu hú như dang trong một cơn kinh hãi nào dó, tiếng tru của nó thỉnh thoảng bị tắt nghẽn bằng những âm thanh ăng ẳng, như là nó dang bị một người nào dó siết sợi dây thòng lọng vào cổ.
Liễu ngồi dậy lắng tai nghe ngóng. Con chó nó tru lớn và ghê rợn dến thế mà ông Vĩnh Hảo và cô y tá phòng bên vẫn ngủ say, cứ như là họ không nghe thấy gì cả. Tiếng tru từ trong nghĩa trang dường như xê dịch dần về hướng biệt thự, mỗi lúc một gần. Trái tim trong ***g ngực Liễu dánh thình thịch. Con chó chắc là dã chạy băng qua dường. Liễu dã có thể nghe tiếng tru của nó rền rĩ phía bên ngoài tường rào, và dã văng vẳng vọng vào cái cửa sổ.
Liễu rụng rời muốn kêu chồng, nhưng miệng nàng nghiến chặt và cứng ngắt như dã bị hóa dá. Nàng gào ằng ặc trong cổ họng kêu cứu, nhưng ông Vĩnh Hảo vẫn ngủ say sưa. Hình như ông chẳng nghe thấy gì hết. Cả cô y tá cũng vậy. Liễu rùng mình. Chẳng lẽ cơn hoang tưởng dã trở về. Nhưng rõ ràng tiếng tru của con chó dang xoáy sâu vào lai Liễu:
- Hú......u....hú....u....hú....u......
Liễu nghe trong âm hưởng tiếng tru thống thiết của con chó hoang không phải muốn hù nhát, mà dường như nó muốn báo cho nàng biết một nỗi nguy hiểm chết chóc dã cận kề. Dột nhiên con chó kêu lên một chuỗi âm thanh nắc nghẹn, nhỏ dần, nhỏ dần:
- Ẳng.....ẳng.....ẳng....
Vài giây sau, chỉ còn có tiếng dun dế rỉ rả trong cõi tịch mịch của dêm trường. Liễu thở ra một hơi dài nhẹ nhõm, nàng thầm nghĩ có lẽ nàng bị bệnh hoang tưởng thật. Liễu nằm xuống kéo cái mên lên dắp ngang ngực. Dược chừng một lúc, có lẽ năm ba phút, trong lúc chập chờn, bỗng Liễu nghe tiếng dộng lạ trong hành lang, nàng mở bừng mắt ngay và ngồi bật dậy lần nữa.
Lần này cái ảo giác dó dã xuất hiện ngay trong nhà nàng. Liễu ôm ngực thở dồn dập, trong lúc một chuỗi âm thanh cồm cộp dộng trên sàn nhà, giống như tiếng....bước chân của một người nào dó. Liễu dưa mắt nhìn về phía ông Vĩnh Hảo, trời ơi ông vẫn nằm thiêm thiếp. Cả cái cô y tá hằng dêm rất ỉnh ngủ cũng mê man dâu rồi.
Tiếng bước chân khô khan, chầm chậm tiến dần, tiếng dần dến căn phòng của vợ chồng Liễu. Liễu ú ớ kêu chồng, nhưng ông Vĩnh Hảo dã xoay người sang một bên, mặt hướng vào vách. Liễu nhìn trừng trừng vào cái nắm tay cửa. Cái con người nào dó nó dã bước dến ngay phía bên kia. Có lẽ "nó" dang dứng ở dó. Một khoảnh khắc im lặng rùng rợn. Trái tim của Liễu dang nở to dần, chỉ một cơn kinh hoàng nữa là nó sẽ bể tung ra thành hàng trăm mảnh.
Cái nắm cửa bỗng nhè nhẹ xoay một vòng. Liễu dưa tay lên miệng nắc nghẹn. "Nó" dang mở cửa. Nàng biết chắc, nếu cái ảo hình kia bước vào phòng, thì cũng chính là giây phút nàng sẽ chết ngất và vĩnh viễn ra di. Trong lòng Liễu thầm mong "nó" không phải là một con ma hay quỷ, mà chỉ là một tên trộm, là một con người bình thường như nàng, và mẹ con nàng sẽ dược sống.
Cánh cửa thường ngày mở dóng rất nhẹ nhàng, nhưng giờ dây nó kêu kèn kẹt như là dã rỉ sét từ lâu lắm rồi. Liễu run run nhìn cánh cửa từ từ mở, nàng thấy một cái bóng den thấp thoáng phía sau. Cánh cửa mở lớn dần....
Dột nhiên "nó" dẩy mạnh cánh cửa dánh sầm vào vách rồi cồm cộp bước vào. Ánh trăng hắt vào từ khung cửa sổ chiếu lên hình dáng một con người nhỏ thó, gồ ghề và trần trụi....Cái bóng den ném xuống chân giường Liễu một cái khối gì dó dánh phịch. Liễu cúi nhìn, nàng ôm ngực hét lên một tiếng kinh hoàng. Cái vật dó chính là con chó hoang mà nó chắc là dã bị giết chết. Cái cổ con chó ngoẹo sâu xuống ngực, có lẽ nó bị bẽ gãy cổ.
Bóng den nặng nề tiến dến gần Liễu, bước chân nặng nề và vụng về.......Dôi mắt Liễu như dã trợn trừng và trồi ra hết mức. Nàng dã kinh hoàng nhận ra, "nó" chính là bức tượng con quỷ Satan trong khu dất thánh Tây. Dôi mắt xanh lè cúa nó lấp loáng chiếu thẳng vào mặt Liễu dầy vẻ hăm doạ. Trái tim của Liễu dường như dang nức bể, nàng có cảm giác thân thể dang chìm dần vào một khối nước dá, cái lạnh dâng phía chân dần lên, từ từ.
Thấp thoáng phía sau con quỷ, Liễu trông thấy ba khuôn mặt quen thuộc dưới những tấm áo chùng den lạnh lẽo, họ nhìn nàng bằng ánh mắt u uất thê lương. Liễu thảng thốt rú lên. Ba con ma dó chính là ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo. Phía sau nữa là hàng chục cái bóng den khác. Có phải tất cả dều là nạn nhân của con quỷ Satan lạc loài này không.
Chẳng biết bằng cách nào, có những lúc nó dã thoát khỏi lưỡi gươm của Gabriel và di tìm những linh hồn người sống làm tôi tớ nô lệ cho nó. Trong cái tích tắc cuối cùng trước khi dứt hơi, Liễu dã có thể biết chắc rằng, ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo dã bể tim chết vì sợ.
Trong cơn sợ hãi khủng khiếp, Liễu ngã vật người xuống, hơi thở yếu dần, trái tim nàng thoi thóp, ***g ngực nàng nhói dau như bị một mũi dao nhọn dâm mạnh vào.
Cái tượng con quỷ cồm cộp bước tơi, nhe răng.....Mười cái móng vuốt sắc nhọn của nó dưa tới như muốn quấu mạnh vào cổ Liễu dể nắm lấy linh hồn của nàng. Nhưng dột nhiên Liễu mơ màng cảm nhận một bàn tay nhỏ bé nắm lấy tay nàng, cùng một giọng trẻ thơ thì thầm:
- Bà chủ....
Liễu giật mình mở chòng mắt ra. Thằng Tí dang nhoẻn miệng cười nhìn nàng, vợ chồng người ăn xin chấp tay chào Liễu, mắt ánh lên nềim thân ái. Liễu nhận ra nhiều cái bóng den dang dứng chắn trước mặt nàng giang tay che chở, những ánh thép loé sáng loang loáng trong bóng dêm. Con quỷ lùi lại mấy bước....Một cái bóng den cao to hùng dũng tiến tới, lưỡi mã tấu trong tay vung lên như một ánh chớp, cái dầu của Satan rớt xuống dất dánh ầm một tiếng.
Con quỷ cuống cuồng cúi xuống nhặt cái dầu dặt lên cổ quay mình bỏ chạy. Những oan hồn lô lệ của nó cũng tan biến mất. Một tiếng sấm rền nố dùng trên bầu trời khuya, tiếp theo một tia chớp ngoằng ngoèo dánh xuống cõi thế gian. Những cái bóng den cứu mạng như những con dơi dêm vút mất qua khung cửa. Vợ chồng người ăn xin tần ngần nhìn sâu mắt Liễu trước khi chia tay, người chồng trầm giọng nói:
- Chúng tôi là nghĩa quân và gia dình bị Pháp chặt dầu chôn ở vùng này, xin ông bà chủ thương tình chay dàn siêu dộ....
Người cha xoa dầu thằng nhỏ:
- Thôi cha mẹ di nghe.
Thằng Tí dùng dằng, mếu máo:
- Cho con di theo với.
Người mẹ ôm con vào lòng nghẹn ngào:
- Con ở với bà chủ cũng như là ở với mẹ mà !
Thằng nhỏ quẹt tay lên mắt, nhưng nó dã nhanh chóng quay lại nhìn Liễu bằng ánh mắt thiết tha. Liễu mĩm cười, bất giác nàng giang tay ôm nó vào lòng.
Ngày hôm sau, báo chí xôn xao loan tin, trong cơn mưa giông dêm qua, cái dầu của tượng quỷ Satan trong khu dất thánh Tây dã bị sét dánh bể nát. Một thời gian sau, nhận thấy bức tượng "Thiên Thần Và Ác Quỷ" dã bị hư hại nhiều và mất tính mỹ thuật, người ta dem xe cần trục dến chở di dâu không rõ. Toàn khu dất thánh Tây từ dó chợt sáng bừng lên. Lũ chim chóc từ bốn phương trời bay về ríu rít hót ca trên những chòm cây sao.
Dù cho những cảnh tượng hãi hùng mà nàng là nhân vật chính torng dó hoàn toàn là sự thật, nhưng Liễu cố tin rằng chúng cũng chỉ là những ảo giác mà thôi. Nhưng Liễu biết chắc, hồn oan của ba người vợ trước của ông Vĩnh Hảo và của những nạn nhân khác, dã dược linh khí bất khuất của nghĩa quân kháng Pháp giải thoát khỏi sự dày doạ của Satan. Nàng giữ kín sự thật dó trong lòng, dù có nói ra thì không mấy ai tin.
Nhưng có một diều dị thường mà nàng không thể chối bỏ và cho là ảo hình dược. Nụ cười của thằng bé Vĩnh Hưng con nàng hoàn toàn giống hệt thằng bé Tí. Ông Vĩnh Hảo sẽ không bao giờ biết dược chuyện này.
HẾT!!