Họ bước chầm chậm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái nhà đầy bụi. Alastair đi từng bước trên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh cẩn thận đẩy hai cánh cửa khép hờ ra. “Hãy tự nhiên như ở nhà”, anh nói và đưa tay mời khách qua cửa bên phải. “Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ phế thải. Nếu cần mời anh vào xem qua”.
Bên trong căn buồng ngủ tối mịt, ngoại trừ một ít ánh sáng mùa đông yếu ớt hắt vào từ ô cửa sổ nhỏ xíu duy nhất. Kavin bước về phía đó, sát góc buồng. Alastair cúi xuống bật đèn bàn. “Đây là nguồn sáng duy nhất”, anh ta nói. “Tôi hy vọng nó đủ sáng”.
Kavin đặt vali xuống giường.
Còn đây là chiếc radio. Nó có thể làm anh thoải mái đôi chút.
Cám ơn. Kavin nhìn chiếc radio cũ xưa, thô kệch.
Dù sao thì chúng ta nên xuống nhà làm vài ly cho ấm bụng, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm. Bà tin rằng anh sẽ bắt được con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước?
“Tôi xem qua mấy phút thôi”. Kavin cẩn thận rà soát cánh cửa và thấy ổ khoá to với chìa khoá cắm bên ngoài. Then cửa cũng khá to nằm bên trong, nó đã gỉ sét. Anh quan sát cái tủ tường ở góc buồng, cao lớn bằng một gã đàn ông. Anh nhìn sau lưng nó, nhận ra những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường, nhún lên nhún xuống rồi nhìn xuống gầm giường. “Tốt lắm”, anh nói. “Sẽ xong thôi”.
Thế à? Thôi, chúng ta xuống nhà đi.
Tôi quên một món, Kavin nói. “Cái chuông…”
“Đúng rồi”. Alastair nhoài người về phía trước chụp lấy sợi dây dài độ vài phân treo từ trên trần. Anh lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau. “Để báo hiệu, Kavin ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật thì chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó nằm ở đây lâu rồi, nhưng vẫn kêu tốt chán”.
“Này”, Kavin nói, “tôi chả cần cái chuông đỏ như máu kia”.
Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.
“Khoan đã”, Kavin nói. “Tốt hơn nên cho anh biết điều này”. Kavin mở va li lấy ra khẩu súng ngắn. “Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy”. Nói xong anh đặt nó xuống bàn. “Con ma nào dám trêu người, nó sẽ được tặng ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt tay vào việc”.
“Mày nghe rõ chưa ma” Alastair ngửa cổ lên trần nhà cười to. Nếu mày ló mặt ra thì lãnh ngay một viên kẹo đồng đấy nhé.
Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ thiếu ánh sáng.
Mẹ, đây là Kavin. Anh ấy đến từ Australia.
Người đàn bà già tươi cười hỏi han. Trước kia, ngày mà chồng bà còn sống, bà đã từng đến Australia, và bà rất yêu đất nước đó, còn giờ đây, cái mà bà quan tâm nhất là làm sao để bắt được con ma trong ngôi nhà Drumkattle?
Alastair giải thích rằng đây chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm người hầu ngủ trên giường bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kavin sẽ ngủ – hoặc là cố để ngủ – trong căn buồng đó.
“Năm mươi pao thì nhiều đấy”, bà Moncrieff nói.
Nhiều, nhưng với con thôi. Còn Kavin – Anh ấy giàu lắm – chính anh ấy mới là người trả tiền thua cuộc…
Kavin nhún vai cười. “Tôi không tin thế”.
Gần mười hai giờ khuya, một mình Kavin ở trong căn buồng áp mái, cửa được khoá trái bên ngoài. Khẩu súng đặt ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ nếu con ma xuất hiện, dù nó ăn mặc quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai trời không có trăng. Căn buồng sẽ tối tăm nếu anh tắt chiếc đèn bàn trên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt vào một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.
Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn bìa sách nhưng tâm trí mãi nhớ đến lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông – họ sẽ cảm thấy xấu hổ trước mặt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ – họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.
Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có người nào đi thông báo; Drumkattle là ngôi làng duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe tiếng chuông. Vậy thì khỏi cần rung chuông nữa. Anh cảm thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc radio bên cạnh, lắng nghe chươn trình “Nhạc đêm khuya” trên sóng đài Home. Anh chuyển sang đài Light đang phát ra bản nhạc Ja
, cuối cùng anh chọn đài Hamburg với loại nhạc Valse. Anh ngồi dậy cởi quần áo mặc ngoài.
Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần nữa và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp và với tay tắt đèn – có thể chiếc giường nằm không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh.
Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh quơ tay tắt chiếc radio.
Không chắc là mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe có tiếng động lúc một giờ sáng. Ban đầu anh không định hướng được âm thanh đó xuất phát từ đâu, dần dần mái nhà như thủng ra và nước nhỏ giọt xuống sàn. Anh đợi một lúc và bất ngờ bật đèn.
Thật lạ, không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn.
Lần này, chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.
Anh bực mình vì có tiếng động ngay cạnh đầu giường. Anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập nhanh và hai bên thái dương giần giật. Tiếng động của chất lỏng đó dường như đang hoà nhịp với sự lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước nhễu thay đổi vị trí như có một lỗ thủng khác trên mái nhà. Anh bật đèn lên, âm thanh nọ lại ngưng bặt.
Anh bật dậy, nhìn qua ô cửa sổ rồi bước đến gần thò tay ra ngoài: trời đâu có mưa? Lạ thật! Anh lui cui đi tìm nhưng vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ, mở toang hai cánh ra vì tưởng rằng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng.
Để đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ, ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.
Kavin chợt giật mình vì có tiếng người nói, anh ngồi bật dậy, tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ, giọng một cô gái, du dương. Anh căng tai, và từ rất xa, rất nhẹ, dường như có tiếng gọi “Kavin”.
Thật vô lý. Anh không thể tự biến thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh bật đèn – mọi thứ chìm vào im lặng.
Anh nguyền rủa, cảm thấy mệt và bực bội. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng khiến anh thấy ran rát, và tai nghe rõ nhịp tim đập, anh chụp vội khẩu súng.
“Anh đang nằm”, giọng nói lại vang lên. “Giữa vùng máu đỏ còn ấm. Máu của tôi, Kavin ạ”.
Anh muốn mở miệng hỏi cái giọng nói kia nhưng không làm sao thốt thành lời. Lát sau, bằng giọng nói hoàn toàn không phải của mình, anh hỏi: “Sao…, sao lại thế…”
Đừng ồn, Kavin. Tôi tới đây để giết anh.
Kavin cười, cố tỏ vẻ can đảm. “Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao?”.
Kavin, bởi vì căn buồng này, chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó.
Mọi thứ ngưng lặng giây lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.
Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kavin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi, khi tôi đang khóc tức tưởi…
Một ý nghĩ thoáng qua khiến anh chú ý đến chiếc công tắc radio. Nó vẫn ở vị trí tắt.
Giọng cô gái lại cất lên. “Hãy tạo mối quan hệ hoà bình với Người Sáng Tạo ra anh, hỡi Kavin Donaldson, vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh”.
Lạ thay – tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao, tại sao anh không nghĩ đến chuyện mang theo chiếc đèn pin?
Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm, anh nguyền rủa bản thân vì thật ra, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson toả ánh sáng dầu tù mù, anh không thấy gì cả.
Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Và anh lại chú ý đến chiếc radio lần nữa. Chắc chắn tiếng nói phát ra từ đó, dù công tắc vẫn tắt. Tức quá anh đập vào chiếc radio. Giọng nói vẫn vang lên nhưng lúc này anh đã quá mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc radio rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.
Như cố tình trêu ngươi, giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng ập đến, anh nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc radio xuống sàn làm nó bể ra. Chưa thoả mãn anh lấy giày đạp loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục mảnh nhỏ.
Giọng nói lại càng rõ hơn. Có ích gì đâu. Kavin. Anh không thể thay đổi được số phận – Tử thần sẽ đến và anh sẽ chết ngay đêm nay.
Anh bật lửa, trong phòng trống rỗng.
Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt, nhìn chầm chập vào một điểm trong bóng tối.
Anh nhìn không biết bao lâu, như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường, đến gần chỗ tiếng động, ở đấy chắc chắn có cái gì đấy. Phát điên lên anh mím môi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.
Anh kêu lên kinh hãi, hơi thở dồn dập. Ánh sáng quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Gương mặt – nếu được gọi đó là gương mặt thì nó có màu xanh tái, còn quần áo – nếu có thể coi đó là quần áo thì màu của nó tối lắm, có lẽ là màu máu đỏ. Hình như người ấy đang nói – vẫn cái giọng nữ – nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.
Anh quỵ xuống giường, người cứng đơ. “Ai… cút đi…”, anh thét lên thảng thốt. “Cô là ai! Sao vào đây được?… Tôi sẽ giết cô đấy. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi”… “Lời cảnh cáo cuối cùng…”
“Đạn không giết được tôi đâu, Kavin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa, và không còn viên đạn nào đâu…”
“Tôi cảnh cáo lần cuối!” – Kavin rít lên.
Anh nổ súng, bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Khói súng vừa hết anh nhìn thấy cái gương mặt trắng nhợt vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Anh thét lên, bắn, bắn tiếp, bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người, đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không tri hô cho mọi người biết. Nghĩ vậy, tay trái rung chuông, tay phải anh vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch… cạch… khô khốc. Hình người đã đè lên anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm, không phải vị ngọt, máu, anh biết đó là máu.
Tay chạm được dây chuông, anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Bóng tối phủ trùm.
Mấy tháng sau, Kavin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không nhận được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng đến, không ai dám vào suốt vài chục năm sau – khi cả toà nhà đổ sụp xuống.
Bên trong căn buồng ngủ tối mịt, ngoại trừ một ít ánh sáng mùa đông yếu ớt hắt vào từ ô cửa sổ nhỏ xíu duy nhất. Kavin bước về phía đó, sát góc buồng. Alastair cúi xuống bật đèn bàn. “Đây là nguồn sáng duy nhất”, anh ta nói. “Tôi hy vọng nó đủ sáng”.
Kavin đặt vali xuống giường.
Còn đây là chiếc radio. Nó có thể làm anh thoải mái đôi chút.
Cám ơn. Kavin nhìn chiếc radio cũ xưa, thô kệch.
Dù sao thì chúng ta nên xuống nhà làm vài ly cho ấm bụng, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm. Bà tin rằng anh sẽ bắt được con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước?
“Tôi xem qua mấy phút thôi”. Kavin cẩn thận rà soát cánh cửa và thấy ổ khoá to với chìa khoá cắm bên ngoài. Then cửa cũng khá to nằm bên trong, nó đã gỉ sét. Anh quan sát cái tủ tường ở góc buồng, cao lớn bằng một gã đàn ông. Anh nhìn sau lưng nó, nhận ra những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường, nhún lên nhún xuống rồi nhìn xuống gầm giường. “Tốt lắm”, anh nói. “Sẽ xong thôi”.
Thế à? Thôi, chúng ta xuống nhà đi.
Tôi quên một món, Kavin nói. “Cái chuông…”
“Đúng rồi”. Alastair nhoài người về phía trước chụp lấy sợi dây dài độ vài phân treo từ trên trần. Anh lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau. “Để báo hiệu, Kavin ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật thì chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó nằm ở đây lâu rồi, nhưng vẫn kêu tốt chán”.
“Này”, Kavin nói, “tôi chả cần cái chuông đỏ như máu kia”.
Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.
“Khoan đã”, Kavin nói. “Tốt hơn nên cho anh biết điều này”. Kavin mở va li lấy ra khẩu súng ngắn. “Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy”. Nói xong anh đặt nó xuống bàn. “Con ma nào dám trêu người, nó sẽ được tặng ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt tay vào việc”.
“Mày nghe rõ chưa ma” Alastair ngửa cổ lên trần nhà cười to. Nếu mày ló mặt ra thì lãnh ngay một viên kẹo đồng đấy nhé.
Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ thiếu ánh sáng.
Mẹ, đây là Kavin. Anh ấy đến từ Australia.
Người đàn bà già tươi cười hỏi han. Trước kia, ngày mà chồng bà còn sống, bà đã từng đến Australia, và bà rất yêu đất nước đó, còn giờ đây, cái mà bà quan tâm nhất là làm sao để bắt được con ma trong ngôi nhà Drumkattle?
Alastair giải thích rằng đây chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm người hầu ngủ trên giường bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kavin sẽ ngủ – hoặc là cố để ngủ – trong căn buồng đó.
“Năm mươi pao thì nhiều đấy”, bà Moncrieff nói.
Nhiều, nhưng với con thôi. Còn Kavin – Anh ấy giàu lắm – chính anh ấy mới là người trả tiền thua cuộc…
Kavin nhún vai cười. “Tôi không tin thế”.
Gần mười hai giờ khuya, một mình Kavin ở trong căn buồng áp mái, cửa được khoá trái bên ngoài. Khẩu súng đặt ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ nếu con ma xuất hiện, dù nó ăn mặc quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai trời không có trăng. Căn buồng sẽ tối tăm nếu anh tắt chiếc đèn bàn trên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt vào một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.
Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn bìa sách nhưng tâm trí mãi nhớ đến lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông – họ sẽ cảm thấy xấu hổ trước mặt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ – họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.
Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có người nào đi thông báo; Drumkattle là ngôi làng duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe tiếng chuông. Vậy thì khỏi cần rung chuông nữa. Anh cảm thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc radio bên cạnh, lắng nghe chươn trình “Nhạc đêm khuya” trên sóng đài Home. Anh chuyển sang đài Light đang phát ra bản nhạc Ja
, cuối cùng anh chọn đài Hamburg với loại nhạc Valse. Anh ngồi dậy cởi quần áo mặc ngoài.
Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần nữa và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp và với tay tắt đèn – có thể chiếc giường nằm không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh.
Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh quơ tay tắt chiếc radio.
Không chắc là mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe có tiếng động lúc một giờ sáng. Ban đầu anh không định hướng được âm thanh đó xuất phát từ đâu, dần dần mái nhà như thủng ra và nước nhỏ giọt xuống sàn. Anh đợi một lúc và bất ngờ bật đèn.
Thật lạ, không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn.
Lần này, chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.
Anh bực mình vì có tiếng động ngay cạnh đầu giường. Anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập nhanh và hai bên thái dương giần giật. Tiếng động của chất lỏng đó dường như đang hoà nhịp với sự lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước nhễu thay đổi vị trí như có một lỗ thủng khác trên mái nhà. Anh bật đèn lên, âm thanh nọ lại ngưng bặt.
Anh bật dậy, nhìn qua ô cửa sổ rồi bước đến gần thò tay ra ngoài: trời đâu có mưa? Lạ thật! Anh lui cui đi tìm nhưng vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ, mở toang hai cánh ra vì tưởng rằng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng.
Để đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ, ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.
Kavin chợt giật mình vì có tiếng người nói, anh ngồi bật dậy, tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ, giọng một cô gái, du dương. Anh căng tai, và từ rất xa, rất nhẹ, dường như có tiếng gọi “Kavin”.
Thật vô lý. Anh không thể tự biến thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh bật đèn – mọi thứ chìm vào im lặng.
Anh nguyền rủa, cảm thấy mệt và bực bội. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng khiến anh thấy ran rát, và tai nghe rõ nhịp tim đập, anh chụp vội khẩu súng.
“Anh đang nằm”, giọng nói lại vang lên. “Giữa vùng máu đỏ còn ấm. Máu của tôi, Kavin ạ”.
Anh muốn mở miệng hỏi cái giọng nói kia nhưng không làm sao thốt thành lời. Lát sau, bằng giọng nói hoàn toàn không phải của mình, anh hỏi: “Sao…, sao lại thế…”
Đừng ồn, Kavin. Tôi tới đây để giết anh.
Kavin cười, cố tỏ vẻ can đảm. “Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao?”.
Kavin, bởi vì căn buồng này, chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó.
Mọi thứ ngưng lặng giây lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.
Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kavin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi, khi tôi đang khóc tức tưởi…
Một ý nghĩ thoáng qua khiến anh chú ý đến chiếc công tắc radio. Nó vẫn ở vị trí tắt.
Giọng cô gái lại cất lên. “Hãy tạo mối quan hệ hoà bình với Người Sáng Tạo ra anh, hỡi Kavin Donaldson, vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh”.
Lạ thay – tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao, tại sao anh không nghĩ đến chuyện mang theo chiếc đèn pin?
Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm, anh nguyền rủa bản thân vì thật ra, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson toả ánh sáng dầu tù mù, anh không thấy gì cả.
Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Và anh lại chú ý đến chiếc radio lần nữa. Chắc chắn tiếng nói phát ra từ đó, dù công tắc vẫn tắt. Tức quá anh đập vào chiếc radio. Giọng nói vẫn vang lên nhưng lúc này anh đã quá mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc radio rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.
Như cố tình trêu ngươi, giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng ập đến, anh nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc radio xuống sàn làm nó bể ra. Chưa thoả mãn anh lấy giày đạp loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục mảnh nhỏ.
Giọng nói lại càng rõ hơn. Có ích gì đâu. Kavin. Anh không thể thay đổi được số phận – Tử thần sẽ đến và anh sẽ chết ngay đêm nay.
Anh bật lửa, trong phòng trống rỗng.
Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt, nhìn chầm chập vào một điểm trong bóng tối.
Anh nhìn không biết bao lâu, như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường, đến gần chỗ tiếng động, ở đấy chắc chắn có cái gì đấy. Phát điên lên anh mím môi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.
Anh kêu lên kinh hãi, hơi thở dồn dập. Ánh sáng quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Gương mặt – nếu được gọi đó là gương mặt thì nó có màu xanh tái, còn quần áo – nếu có thể coi đó là quần áo thì màu của nó tối lắm, có lẽ là màu máu đỏ. Hình như người ấy đang nói – vẫn cái giọng nữ – nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.
Anh quỵ xuống giường, người cứng đơ. “Ai… cút đi…”, anh thét lên thảng thốt. “Cô là ai! Sao vào đây được?… Tôi sẽ giết cô đấy. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi”… “Lời cảnh cáo cuối cùng…”
“Đạn không giết được tôi đâu, Kavin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa, và không còn viên đạn nào đâu…”
“Tôi cảnh cáo lần cuối!” – Kavin rít lên.
Anh nổ súng, bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Khói súng vừa hết anh nhìn thấy cái gương mặt trắng nhợt vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Anh thét lên, bắn, bắn tiếp, bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người, đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không tri hô cho mọi người biết. Nghĩ vậy, tay trái rung chuông, tay phải anh vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch… cạch… khô khốc. Hình người đã đè lên anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm, không phải vị ngọt, máu, anh biết đó là máu.
Tay chạm được dây chuông, anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Bóng tối phủ trùm.
Mấy tháng sau, Kavin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không nhận được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng đến, không ai dám vào suốt vài chục năm sau – khi cả toà nhà đổ sụp xuống.